...Lịch
sử đã chứng minh nhiều lần là cộng sản đi tới đâu thì gây giết chóc, băng hoại,
phá hủy tàn hại đến đó: từ tâm linh, tình cảm, văn học, tình người, sinh mạng
người vô tội... Tất cả những cái tốt, cái đẹp, cái lịch thiệp, cái hòa nhã văn
minh dường như đã mất hết sạch. Cộng sản Việt Nam ( CSVN) có tài thích “tự
sướng” về mục “phá kỷ lục”; nhưng họ lại quên ghi lại cái thành tích đáng kể là
chỉ trong một thời gian ngắn, kỷ lục 43 năm, tạm thời tính từ tháng 4 năm 1975,
họ đã hủy hoại một nền văn hóa mà tổ tiên ta khổ công gầy dựng trên 4000
năm!...
*
Đời
sống biến chuyển (dynamic) và liên tục thay đổi theo tiến hóa của văn minh và
kỹ thuật. Ngôn ngữ cũng tự nó tìm cách thay đổi theo cho phù hợp. Những chữ gắn
liền với lối sống cũ không còn thích hợp sẽ ít được dùng hoặc sẽ không được sử
dụng nữa. Như vậy, đời sống (living) của Ngôn ngữ cũng gần giống như đời sống
của con người: sinh ra, lớn lên, già đi và đến lúc sẽ chết. Chỉ khác là ngôn
ngữ chết đi có thể sống lại; trong người chết thì không sống lại được - Thí dụ:
Người Do thái đã hồi sinh tử ngữ (a dead language) Hebrew thanh một sinh ngữ
(living language) đang được dân Do thái sử dụng.
Trong
ngôn ngữ, sự thay đổi là cần thiết. Trong từ điển Anh Ngữ, một sinh ngữ rất phổ
thông, có thêm chừng 750-800 chữ mới trong 1 năm (độ 2-3 chữ 1 ngày). Thay đổi
để làm cho chữ nghĩa linh động và phong phú hơn là chuyện phải làm. Nhưng thực
tế cho thấy trường hợp Việt Ngữ (văn chương chữ nghĩa Việt Cộng - “vi-xi”) từ
sau 1975, riêng ở miền Bắc thì phải nói rõ hơn là từ sau ngày cộng sản cướp
chính quyền - tháng 8 năm 1945 - đến nay, không thay đổi theo cái chiều hướng
tốt đẹp và cần thiết đó. Mỗi lúc sự thay đổi càng thấy tệ hại hơn. Sau 1975,
tiếng Việt bị bóp méo, sửa chữa bừa bãi mất chuẩn đến mức độ cần phải báo
động.
Những
chữ nghĩa quái lạ, hạ cấp, dung tục, mất dạy, du thủ du thực, lóng thường chỉ
được dùng ở chợ búa, đường phố hay trên bàn nhậu đã thấy xuất hiện đầu tiên ở
miền Bắc rồi lan tràn vào miền Nam; bây giờ lan tràn ra cả hải ngoại trên văn
viết của các báo chí (print press) và truyền thông (đài truyền hình, phát
thanh...) dòng chính (main streams). Người Việt nói sai, viết sai, hiểu sai
tiếng Việt một cách tùy tiện vô trách nhiệm. Có một số “học giả thiệt” ở trong
nước còn có “công sức” và can đảm đề nghị đổi hoàn toàn cách viết chữ Quốc Ngữ
thành một thứ tiếng gần như xa lạ ngay với người Việt. Thiệt tình!? (Xin xem
thêm loại “Chữ Việt Mới” phá hoại chữ Quốc Ngữ của "Gs Ts" Bùi Hiền ở
phần Phụ Đính kèm bên dưới bài viết).
Tiếng
Việt viết và tiếng Việt nói có hai cấp bậc khác nhau: Bác học và Bình dân. Loại
bác học dùng để viết sách, để dạy học, làm văn hóa, nói chuyện một cách đứng
đắn, nghiêm chỉnh; loại bình dân để nói chuyện bình thường hàng ngày trong các
vấn đề xã giao, giữa bạn bè thân hữu, nơi chợ búa, đường phố không cần thiết
phải nghiêm trang, khó hiểu... Bây giờ, ở trong nước Việt Nam, cái lằn ranh Bác
học và Bình dân đó hình như không còn nữa (?) Đối với những người nông dân chân
lấm tay bùn, thợ tay chân ít học thì không nói làm gì; ngay cả 600-700 tờ báo
in, bao nhiêu diễn đàn, đài phát thanh, đài truyền hình dòng chính... đều đồng
loạt sử dụng một thứ chữ nghiã quái đản, kỳ cục, ngây ngô, buồn cười mà người
ta còn gọi là “Văn hoá Đồ Đểu.”
Lịch
sử đã chứng minh nhiều lần là cộng sản đi tới đâu thì gây giết chóc, băng hoại,
phá hủy tàn hại đến đó: từ tâm linh, tình cảm, văn học, tình người, sinh mạng
người vô tội... Tất cả những cái tốt, cái đẹp, cái lịch thiệp, cái hòa nhã văn
minh dường như đã mất hết sạch. Cộng sản Việt Nam ( CSVN) có tài thích “tự
sướng” về mục “phá kỷ lục”; nhưng họ lại quên ghi lại cái thành tích đáng kể là
chỉ trong một thời gian ngắn, kỷ lục 43 năm, tạm thời tính từ tháng 4 năm 1975,
họ đã hủy hoại một nền văn hóa mà tổ tiên ta khổ công gầy dựng trên 4000 năm!
Tôi
muốn nhấn mạnh ở đây về sự phân biệt nổi bật giữa “Tiếng Việt Mới” và “Tiếng
Việt Truyền Thống.” Tôi cố tránh dùng chữ “Tiếng Việt Chuẩn” bởi vì, cho đến
ngày hôm nay, nước Việt Nam chưa có một “Viện Hàn Lâm” về ngôn ngữ, và chưa có
“Nhà Ngôn Ngữ Học” nào có đủ thẩm quyền để đặt hay gọi tiếng Việt loại nào?
Vùng nào? là “Chuẩn.” Trước khi CSVN cướp chính quyền (vào khoảng tháng 8 năm
1945) chữ Quốc Ngữ với hình thức chính tả (như được dùng trên toàn lãnh thổ
nước Việt Nam và hải ngoại) đã tạm ổn định không có khó khăn gì đáng kể; ngoại
trừ một ít vấn đề phương ngữ, thổ ngữ cần được bàn và thỏa thuận them về sau.
Sự thành hình và tiếp tục thay đổi của chữ Quốc Ngữ khởi sự từ năm 1632 (?) khi
hai giáo sĩ người Bồ Đào Nha là Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa đã sáng tạo
ra cách dùng chữ La-tinh để ghi âm tiếng Việt, và sử dụng ký tự La-tinh, dựa
trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ La Mã (Roman - như mẫu tự A, B, C, D…),
đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu (Accent marks) từ bảng
chữ cái Hy Lạp. mà sau này được gọi là Chữ Quốc Ngữ. Kế tiếp là giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (1591-1660) được coi là người có vai trò quan trọng nhất
trong tiến trình cải tiến và hệ thống hóa một cách rất công phu chữ Quốc Ngữ
như chúng ta đọc và viết ngày hôm nay qua hai quyển sách Từ điển “An Nam - Bồ
Đào Nha - Latin” (còn gọi là Từ điển Việt - Bồ - La) và “Phép giảng tám ngày”
(một phần của Phúc âm Công giáo) bằng Quốc Ngữ được xuất bản năm 1651 ở Roma.
Đến hôm nay đã trải qua trên vài trăm năm chử Quốc Ngữ trở nên khá vững vàng,
mạch lạc và trong sáng.
Bây
giờ cùng nhau nhìn lại một số chữ tiêu biểu của loại “văn chương mới” này của
“vi-xi”:
A-
Đổi chữ
1.
Đổi mẫu tự trong một chữ:
a)-
Y thành I:
Trong
tiểu mục này phải đề cập ngay đến vấn đề đổi “Y” (i dài) ra “I” (i ngắn).
Với
thâm ý muốn phá hoại chữ Quốc Ngữ “truyền thống” mà VNCH đã sử dụng rộng rãi
trước 1975, vào ngày 30 tháng 11 năm 1980, Bộ Giáo dục CSVN ban hành một “Quy
định” gọi là “Quy Định 1980” để làm cái gọi là “Nhất thể chữ I (ngắn)” có nghĩa
là thay tất cả các chữ viết có mẫu tự “Y” (dài) thành ra “I” (ngắn); ngoại trừ
khi chữ “Y” đúng một mình (như Y tế, Y hệt, Y nguyên…) với mục đích (!) để “đơn
giản cách viết(?!)” (chứ không phải để phá hoại chữ Quốc Ngữ nhỉ!)
Không
cần phải nói thêm, “quy định” này có sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng vì rất
nhiều chữ có chứa mẫu tự “Y” nếu được thay thế bằng “I” nhìn và đọc rất ngớ
ngẩn, khôi hài không chịu được. Sau đó Bộ Giáo Dục CSVN đã ban hành thêm vài
“quy định” khác để sửa sai “Quy Định 1980” nhưng hầu hết các từ điển, sách giáo
khóa, báo chí kiểm soát bởi đảng csvn ngay sau đó đã dùng đường lối “Nhất Thể i
(Ngắn)” này một cách vô trật tự, bừa bãi hết thuốc chữa (!): “Chống Mĩ cứu
nước,” “Thế kỉ,” “Kỉ luật,” “Thẩm mĩ…” và CSVN rất lúng túng khi gặp các chữ có
“Y” truyền thống khác như “Thủy tinh,” “Thanh Thúy,” “Mỹ Đình,” “Phú Mỹ
Hưng…”
Nên
biết, vấn đề Y-dài-và-I-ngắn chữ Việt truyền thống đã khá rõ rệt từ lâu rồi:“Ngoại
trừ vài ngoại lệ, các chữ thuần Việt (Nôm) nhất là các chữ láy (như tỉ mỉ, li
ti, kì kèo, kì cọ…) sẽ dùng “i ngắn”; riêng các chữ Hán hay Hán-Việt thì phải
dùng “y dài” (như Hy vọng, Thế kỷ, Kỷ luật, Thẩm mỹ, Công ty…)
b)-
C và K:
Trường
hợp thay đổi kỳ lạ giữa C và K này xảy ra vì “cha già” HCM (lúc đó boác còn lấy
tên cha chung Nguyễn Ái Quốc) đã từng viết 3 chữ “Đường cách mạng” thành ra là
“Đường kách mệnh (?)” trong những bài giảng của các lớp đào tạo cán bộ cộng sản
Việt Nam tại Quảng Châu, Tàu. Voilà! Các cháu ngoan của boác cứ thế mà rập theo
khuôn ngu dốt đần độn của boác cho có vẻ chung lòng “kách mệnh” “kíu cuốc”:
Chẳng hạn viết là Bắc Cạn là Bắc Kạn (nhưng tại sao các bác lại không viết là
“Bắk Kạn” cho nó thống nhất với chữ Đắk Lắk?). Trong khi đó các chữ ùn tắk, lâm
tặk, cát tặc... thì lại giữ y nguyên mẫu tự “C” truyền thống ở mẫu tự cuối
cùng? Thật là chuyện lủng củng, vớ vẩn, nhức đầu đau bụng, không biết đâu là mà
lần?
2)-
Đổi thứ tự của chữ kép:
Dùng
chữ cũ với nghĩa cũ nhưng lại đảo ngược chữ một cách không cần thiết để hợp
thời trang với “kách mệnh, giải phóng”: triển khai, đảm
bảo (nhưng vẫn giữ “thư bảo đảm?” là sao vậy?), kiếm
tìm, lớp trưởng, xa xót, giản đơn, nhóm
trưởng, chối từ ( nhưng không thấy đổi chữ
“le lói” thành “lói le” lạ nhỉ?).
3)-
Thay chữ cũ bằng chữ mới mà không cần biết có hợp lý hay hợp nghĩa không!?
a)-
Thay Chữ Nôm:
Lái
xe (tài
xế): Cứ thử nói câu “Lái xe gặp lái xe rồi cùng nhau lái xe đi!!! Tổ
lái(Phi hành đoàn), lính Thủy đánh Bộ (TQLC), máy
bay lên thẳng (trực thăng),xưởng đẻ (nhà bảo
sinh), nhà ỉa (cầu tiêu, nhà xí), lính gái (nữ
quân nhân), thủy thủ gái (nữ thủy thủ), lệch
pha (“Out of phase?” - lệch, không còn ăn khớp), phượt (du
lịch? Xin chào thua chữ này!), đái tháo đường (tiểu
đường), đứng lớp(dạy học), tốp ca (hợp
ca), múa đôi (khiêu vũ), bú mồm (hôn
môi), đuối nước(chết đuối), mặt bằng (diện
tích), kênh (băng tần, đài), đắng lòng (đau
lòng), nổi cộm (nổi bật), tổ lái (phi
hành đoàn),
b)-
Thay Chữ Hán-Việt:
Sự
cố (nghe
giống chữ Hán Việt; nhưng tiếng Hán không hề có chữ quái gở vô nghĩa này. Tiếng
Hán có “cố sự” là “chuyện cũ” mà thôi - trở ngại), đại trà (nghe
giống chữ Hán Việt; nhưng tiếng Hán không hề có chữ này, quy mô), chất
lượng(nhập nhòe lượng với phẩm, phẩm chất), liên hệ (liên
lạc), quan hệ (làm tình?), phi vụ (dịch
vụ? nghe giống như một chuyến bay), Viện Da liễu (hoàn
toàn không có nghĩa gì cả, hay là “Da cây Liễu?”), triều cường (là
nước đi lên; chỉ là một nửa của Thủy triều. Thủy triều là “nước lên và nước
xuống”), chuyên cơ (máy bay riêng - của Tổng
thống), nội thất ( bàn ghế trong nhà), n ội
y (đồ lót), cơ trưởng(phi công trưởng), ngoại
hình (hình dáng bên ngoài), đột tử (chết
bất tử), bồi dưỡng (hối lộ? aăn thêm?), bảo
kê ( bảo hiểm), tử vong ( chết), cảnh
báo (báo động), dự báo (tiên đoán), tuyến
đường (đường), động thái ( chuyển động -
VNCH không có chữ này), kinh điển (hay, đẹp - VNCH
không hề có chữ này), đột biến (chợt thay đổi), cá
thể (một con), thể lực (sức lực), giáo
án ( bài soạn trước để dạy), tư duy (suy
nghĩ), thư giãn ( nghỉ ngơi), truy cập (
vào?), thuyết phục (rõ ràng).
B-
Ghép chữ Hán và chữ Nôm:
Nối
nửa Hán nửa Nôm với nhau thành chữ kép rất kinh hoàng, không giống con giáp
nào: Siêu sao, siêu rẻ, siêu bèo, siêu
lạ, siêu nhanh, siêu mỏng, siêu kinh
điển (?) nữ nhà báo, đa mầu sắc, múa
đôi, cao tốc, tăng tốc.
C-
Ghép chữ Hán-Việt với chữ Hán-Việt:
Một
cách cẩu thả chưa từng thấy: Siêu mẫu, kích cầu, kích
hoạt, giao hợp, lễ tân,bảo
quản, bảo lưu, tích hợp.
D-
Dùng lại chữ cũ:
Sử
dụng lại một số chữ “truyền thống” cũ đã không thấy sử dụng nữa trước
1975: Xiển dương (phát huy), cơ ngơi (toàn
bộ cơ sở, bất động sản).
E-
Dùng trực tiếp chữ ngoại quốc một cách không cần thiết
Teen (tuổi vị thành
niên), hot (hot girl, hot boy), sốc (“shocked”), cờ-clip (clip), bờ-lốc (blog), phây (facebook), pa-nô (panneau), băng
rôn (bande de role), casino(sòng bạc), gu (gout,
sở thích), xả stress (làm bớt căng thẳng), ống
tuýp (tube), lô-cốt (pháo tháp?), ô-tô (xe
hơi), gym (phòng tập thể dục).
F-
Dùng chữ ngoại ngữ phiên âm:
Rất
cẩu thả, tùy hứng, không có quy luật gì cả, không thể nhận ra được là cái gì
khi cần phải tra cứu thêm: Ốt-tra-lia (Nước Úc /
Australia), Ít-ra-en (Nước Do Thái - Israel), Oa-sinh-tơn (Thủ
đô Hoa Thịnh Đốn của Hoa Kỳ - Washington); Ác-Hen-ti-na (Nước
Á Căn Đình ở Nam Mỹ - Argentina), Bo (pourboire, Tips), Top (dứng
hàng đầu), Quá Đát (outdated),
G-
Dùng chữ lóng / chữ đường phố, của giới giang hồ
Rò
rỉ (tiết
lộ), ném đá (chỉ trích), ùn tắc (kẹt,
nghẹt), dao kéo (giải phẫu), nhí (nhỏ
bé, nhi đồng), gái (điếm), bèo (rẻ), cháy (hết), săm
soi (tìm hiểu), dỏm (giả), chui(lén
lút).
H-
Dùng ngữ pháp sai lệch và rối loạn
1)-
Dùng danh từ thành tĩnh từ
“Bức
tranh nhìn rất ấn tượng?!”
“Chị
ta sống rất hoàn cảnh?!”
2)-
Danh từ thành động từ
“Hôm
nay khả năng trời không mưa?!”
“Tôi
không cho anh em lên chức thì anh em tâm tư?!”
3)-
Tĩnh từ thành động từ
“Anh
cứ vô tư?!”
“Các
đồng chí khẩn trương lên!”
4)-
Động từ thành danh từ
“Lãnh
đạo đang sửa soạn cho đại hội đảng?!”
5)-
Trạng từ thành động từ
“Trời
có khả năng mưa?!”
6)-
Giới từ thanh danh từ
“Trên
bảo dưới không nghe!”
7)-
Dùng thừa (dư) chữ
Rau
xanh, cặp
đôi, thể hình thể lực (sức vóc), hành trình phá án.
8)-
Dùng chữ mất đầu:
Tuyển
Việt Nam (Đội
Tuyển Túc cầu Việt Nam), Cảng Hải Phòng (Hải cảng Hải
Phòng), Hầm Thủ thiêm (Đường Hầm Thủ Thiêm), phí (lệ
phí).
9)-
Dùng chữ mất đuôi (dangling!):
Xuất
viện (ra
nhà thương - viện bảo tàng? hay viện dưỡng lão?), nhập viện (vào
nhà thương), làm móng (móng tay? móng chó? móng
heo?), thoát Trung (Trung Hoa? miền Trung?), căng (căng
thẳng), sư (sư đoàn), trung học chuyên (trung
học chuyên ngành), choáng (choáng váng).
Lời
cuối:
Tiếng
Việt “truyền thống” hình thành qua hơn 300 năm (từ 1632 - Xin xem 2 bản Chữ
Quốc Ngữ của năm 1632 và 1700 chụp lại được kèm bên dưới bài viết này) đã khá
ổn định, nhất là sự phát triển không ngừng, vượt bực để gần hoàn chỉnh trong
vòng 100 năm nay. Tiếng Việt “truyền thống” đã thấm sâu vào đời sống và sự suy
nghĩ của người dân Việt. CSVN hiện nay cố gắng áp dụng một cách khắc nghiệt
chính sách “cải lùi” (không phải “cải tiến”) Tiếng Việt nằm trong âm mưu phá
hoại mà tôi tạm gọi là “Tằm Ăn Dâu” (hay “Nồi Nước Luộc Ếch” - dần mòn, âm thầm
thôn tính toàn diện nước Việt Nam!) trong 60 năm cs cầm quyền ở Việt Nam cũng
là một chính sách diệt chủng có hệ thống được hỗ trợ, giật giây, thao túng và
áp lực trực tiếp bởi Tàu cộng (TC). Hiển nhiên, ở thế kỷ 21, thế giới không thể
chấp nhận một sự xâm lăng Việt Nam của TC bằng bạo lực quân sự như các thời kỳ
Bắc thuộc trong lịch sử. TC biết điều đó, cho nên họ chỉ chủ trương xâm lăng
nước Việt mà không cần phải bắn phát súng nào - “Bất chiến tự nhiên thành.”
Nhìn cho rõ, TC nhắm vào việc tiêu diệt Tiếng Việt thì dân tộc Việt sẽ tự nhiên
biến mất y như Học giả Phạm Quỳnh đã từng nhận xét mà bản thân tôi thấy không còn
gì đích thực hơn: “Tiếng Việt Còn thì Nước Việt Còn.”
Chúng
ta, 94 triệu người Việt, kể cả người Việt trong nước và hải ngoại, không thể
nhắm mắt vô tình hay cố ý cổ xúy cho chính sách ngu si tự diệt chủng này của
CSVN. Hãy thức tỉnh trước sự phá hoại Tiếng Việt của CSVN dưới sự chỉ huy trực
tiếp của TC. Ít ra, 4 triệu người Việt đang sống ở các nước tự do trên thế giới
có tất cả mọi cơ hội để không làm gì mà phải sợ cộng sản (vì bất cứ lý do gì).
Chúng ta phải làm ngay cái gì đó để CSVN sợ - Tuyệt đối không dùng chữ nghĩa
“mới” đần độn của “vi-xi” dưới mọi hình thức chẳng hạn - trước khi dân số Việt
Nam được nói tiếng Việt chỉ còn độ 4 triệu người trên hành tinh này?!
Đây
không phải là lời tiên tri mà là một kêu gọi thật lòng!
Xin
thành thật cám ơn sự lưu tâm của quý vị. Vì tiền đồ của đất nước, xin rất mong
mỗi người trong chúng ta cố gắng đóng góp một chút ít cho tương lai và sự trong
sáng của Tiếng Việt để Tiếng Việt sống mãi thì Nước Việt sống mãi.
“Thượng
đế hỡi có thấu cho Việt Nam này!”
*
Một
Bản chữ Quốc ngữ năm 1632
Một
Bản chữ Quốc ngữ năm 1700
*
Phần
Phụ Đính:
Xin
quý vị lần lượt mở các “links” dưới đây để thấy cách dùng chữ “mới” bừa bãi từ
trong nước ra đến hải ngoại.
1.
Bản tin của trang điện báo VNexpress (trong nước) đăng ngày 12/9/2017:
“35
năm sản xuất kềm móng cho doanh nghiệp Việt.”
-
Móng gì vậy? Móng chó? hay Móng mèo? hay Móng ngựa?
2.
Bản tin của chương trình BBC Tiếng Việt đăng ngày 18/7/2018
“Đội
bóng Thái nhí ra viện dự họp báo.”
-
Nhí? Mà ra Viện gì? Viện Bảo Tàng? hay Viện Dưỡng Lão?
3.
Bản Tin của dài VOA Tiếng Việt đăng ngày 25/7/2018
“Vụ
Vaccine dỏm TQ: 15 người bị bắt.”
-
Dỏm? Giởn hoài! Các bố ở đài cho con nhờ tí. Đài VOA chứ đâu có phải chợ cầu
Ông Lãnh!
4.
Chữ Việt Mới – và Gs TS Bùi Hiền
-Záo
Zụk kái kon kẹk zì! Kó fải là qữ Tàu qoại “Pingin” không hả “Xì thẩu” Puồi
Hèng?!
08.08.2018
No comments:
Post a Comment