BTV Tiếng Dân
15/08/2018
Giải mã Gạc Ma
Xung quanh biến cố Gạc Ma năm 1988, cựu chiến binh
Phan Trí Đỉnh đã chia sẻ trên Facebook cá nhân một số trích đoạn được cắt từ
một thước phim ghi hình cuộc nói chuyện của Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm.
Trong những đoạn trích này, Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm cho biết một số thông tin cụ thể về tình hình
Biển Đông và Gạc Ma năm 1988, sự chuẩn bị và những khó khăn của Hải quân Việt
Nam khi đó, cũng như quan điểm của ông về mối quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc.
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm khẳng định, biến cố Gạc Ma
không phải là một trận hải chiến mà là một cuộc thảm sát mà lực lượng Trung
Quốc với vũ khí, tàu chiến hiện đại gây ra đối với lực lượng tàu vận tải của
Việt Nam.
Đọc thêm bài phỏng vấn Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm được
báo Thanh Niên thực hiện năm 2014 với nhiều thông tin chi tiết: Từ thảm sát Gạc Ma đến mộng bá chủ Biển Đông.
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm từng là Phó tham mưu trưởng
Hạm đội 171, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 61, Tham mưu phó phụ trách tác chiến của
Quân chủng Hải quân, nguyên Giám đốc Học viện Hải quân Việt Nam. Ông là người
trực tiếp phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân khi Trung Quốc dùng vũ
lực chiếm đảo Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988. Hiện ông là Chủ tịch Hội Khoa
học – Kỹ thuật và Kinh tế biển TP.HCM.
Diễn biến thực địa và thái độ các bên
Tiếp tục câu chuyện về việc Trung Quốc cảnh báo phi
cơ của các nước khi bay qua các khu vực mà Trung Quốc đang chiếm đóng ở Biển
Đông, mới đây tướng Carlito Galvez, Tư lệnh quân đội Philippines nói, Trung
Quốc vẫn đe doạ tàu và máy bay nước ngoài hàng ngày ở
Biển Đông.
“Và phi công của chúng tôi chỉ trả lời: Chúng tôi
chỉ đang thực hiện chuyến bay thường lệ của mình trong phạm vi quyền hạn và
lãnh thổ của chúng tôi,” tướng Galvez cho biết.
Trong một buổi họp báo, Harry Roque, Phát ngôn viên
Tổng thống Philippines cũng khẳng định mạnh mẽ: “Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục các
chuyến bay. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền của chúng tôi. Và
nếu cần, các phi công Philippines sẽ sẵn sàng hy sinh cho chủ quyền của chúng
tôi“.
Hôm 13 tháng 8, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad
cũng cảnh báo việc triển khai lực lượng đóng quân ở Biển Đông trong một bài trả
lời phỏng vấn truyền thông: “Chúng tôi ủng hộ việc các tàu biển, kể cả chiến
hạm, di chuyển qua Biển Đông, nhưng phản đối việc triển khai lực lượng đóng
quân tại đó. Đây là lời cảnh báo tới tất cả các nước, đừng gây ra căng thẳng không
cần thiết“, AP dẫn lời Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad.
Tuyên bố của Thủ tướng Mahathir được đưa ra trong
bối cảnh Malaysia liên tục phát đi những thông điệp thể hiện quan điểm cứng rắn
với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
“Trung Quốc đã triển khai nhiều tàu hải cảnh lớn
không khác gì tàu chiến tới những khu vực giàu tài nguyên và gây bất an cho các
nước láng giềng”, Ngoại trưởng Malaysia Abdullah Saifuddin phát biểu
hồi cuối tháng 7. Ông cho rằng chính phủ tiền nhiệm hiếm khi chỉ trích
Trung Quốc, dù tàu hải cảnh Trung Quốc đã tiến gần lãnh hải nước này và Bắc
Kinh liên tục bồi đắp, triển khai trái phép nhiều loại vũ khí tới các đảo nhân
tạo trên Biển Đông.
Thủ tướng Mahathir đang tìm cách giảm bớt ảnh hưởng
kinh tế của Trung Quốc đối với Malaysia bằng cách đánh giá lại các dự án đầu
tư. Chính phủ của ông đã đình chỉ một dự án đường sắt trị giá nhiều tỷ USD, vốn
là trọng tâm trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc, cùng hai
dự án đường ống dẫn khí để thương thảo những điều khoản tốt hơn.
Giải pháp cho Biển Đông
Trên Tuần Việt Nam có bài viết “Biển Đông: TQ tham vọng kép, Mỹ cần hành động khẩn?”
trong đó tổng hợp đề xuất của các học giả quốc tế về những việc Mỹ cần phải làm
để chặn đứng tham vọng của Trung Quốc.
Trước tiên, Mỹ cần mở rộng năng lực áp đặt
mức phạt đối với những vi phạm nghiêm trọng các chuẩn mực khu vực và
quy định trong và ngoài Biển Đông. Trung Quốc vươn xa như vậy cho thấy đã
không có mức phạt đủ nghiêm khắc chống lại chiến lược “lát cắt
salami” mà Trung Quốc đang tăng cường ở Biển Đông.
(Nói về “Lát cắt salami”, đây vốn là thuật ngữ được
phương Tây sử dụng. Tuy nhiên Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có lẽ là người đầu
tiên nhìn ra chiến lược này của Trung Quốc từ hơn bảy trăm năm trước, mà ông
gọi là chiến lược “tằm ăn dâu”.)
Thứ hai, Mỹ cần nỗ lực gấp đôi, cả ở quy mô
quốc gia và trong sự phối hợp với các nước khác có cùng chí hướng,
nhằm cải thiện một nhóm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có chung ý
thức về hàng hải. Cuộc khủng hoảng bãi cạn Scarborough năm 2012 lẽ ra
đã được ngăn ngừa nếu Manila được thông tin tốt hơn về tương quan lực
lượng trong khu vực.
Thứ ba, Mỹ cần ủng hộ việc thiết lập một đội tàu đa
quốc gia nhằm phát hiện các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng trong khu
vực. Một mô hình liên minh hàng hải có thể là Lực lượng hỗn hợp đặc biệt 150
(CTF 150), một nhóm quốc tế tìm cách phá vỡ các chiến dịch khủng bố tại một số
hải trình đông đúc nhất thế giới quanh Vịnh Aden và Biển Đỏ. Chỉ huy lực lượng
này có thể luân phiên giữa một số nước Đông Nam Á.
Mục đích cao nhất của một lực lượng hàng hải mới này
là tạo một bức tường thành chống lại tình trạng gia tăng quân sự hóa tại Biển
Đông và các hành động phạm pháp khác. Hơn nữa, các nước bên ngoài Đông Nam Á
phụ thuộc vào hải trình qua Biển Đông, như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ,
Pháp, Anh,… cũng có thể tham gia các chiến dịch của lực lượng này.
Trung Quốc cũng được hoan nghênh nếu chấp nhận các
quy định mà lực lượng đặt ra. Hơn nữa, lực lượng này có thể giúp thực thi Bộ Quy
tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) khi nó ra đời.
Cuối cùng, đã đến lúc ngăn Trung Quốc lập luận vô
nghĩa rằng Bắc Kinh tuân thủ luật hàng hải quốc tế trong khi Washington chế
giễu văn kiện này. Đó là Mỹ nên phê chuẩn Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển.
Bốn bước trên chưa tạo nên một chiến lược Ấn Độ
Dương – Thái Bình Dương toàn diện, nhưng kết hợp với nhau, chúng có thể là sự
khởi đầu của một mạng lưới đối tác mạnh hơn và tạo ra phương tiện ngăn cản bất
cứ quốc gia nào đơn phương đặt ra quy định cho thế giới, bài báo kết luận.
----------------------------------
BÀI
CŨ
No comments:
Post a Comment