Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán
February
7, 2018
Từ
Cai Lậy về thủ đô, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết Giáp và
Xóm Mới Gia Ðịnh xong xuôi, Quái Ðiểu Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về nằm dọc
đường Ngô Tùng Châu. Mười hai giờ khuya họp Tiểu Đoàn, 2 giờ sáng có mặt tại
Tân Sơn Nhất, 4 giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết. Ðồ khô và tái trang
bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Ðó đây những loạt pháo kích, những
loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lũng lẳng trên bầu trời. Tôi để lại đằng
sau một Sài Gòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C.130 khổng lồ
nuốt gọn 800 Quái Ðiểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.
…
Thời tiết thật xấu, và rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài! Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Giạ Lê, An Cựu.
Phú
Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, mạ, dì, chị và em mình đó mà không liên lạc được.
Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn
trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học kéo về trong trí
tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.
…
Mười
giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Giạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo
âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng
kín cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán dìu nhau âm
thầm đếm bước.
Những
cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, đại úy Nhảy Dù, cùng
khóa cho tôi biết:
– Huế tang thương và
điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Ðà Lạt bị thương…
Mạnh
khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu đi bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp:
– Phán, mày cẩn thận.
Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm
hết thành phố, Ðại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá.
…
Mười
ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên
đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua.
Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào đại đội của Lượm và Lộc đều bị
đánh bật lui. Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm
được thêm một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ…
…
Từ
căn nhà hai tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà bảo sanh, một thượng liên và và
trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa
con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa
con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M16 nhưng
hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.
…
Hai
mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chửi nhau.
Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo của tụi nó:
– Bồ câu hết thóc!
Tôi
nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn. Nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó tụi nó
tập trung tấn công mình cũng bị mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn
thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: nếu mình
không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình. Tôi trình với tiểu đoàn trưởng:
– Thiếu tá cho tôi
luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức
khỏe ngày càng hao hụt..
Tiểu
đoàn trưởng không cho bắt ráng giữ vị trí.
– Nếu không thì cho
tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi rút về.
Mình phải chứng minh cho tụi nó thấy mình còn đủ sức chơi tụi nó, thời tụi nó
không dám tấn công mình.
Tiểu
đoàn trưởng nói:
– Làm kế hoạch xong
cho tôi hay.
Thời
khắc lịch sử tại Kỳ Ðài, Phu Lâu, Huế 1968. (Hình: Internet)
Tại
hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc Ðại đội 2, Sự Ðại đội phó của tôi, Duật,
Nghênh và Mã Khện. Tôi nói:
– Nằm chờ lâu tau
chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.
– Nguy hiểm quá,
không được, chết cả lũ!
Tôi
nói:
– Nếu thiếu tá không
làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết!.
Cuối
cùng ông chấp thuận:
– Nhớ là có gì thì trở
về liền, càng sớm càng tốt.
Tôi
dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn
đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên.
Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng.
…
Xuống
trình diện tiểu đoàn trưởng, ông nói ngay:
– Ông làm những chuyện
nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với lữ đoàn?
Tôi
dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị:
– Thưa thiếu tá, ngày
mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng
2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin thiếu tá
cho tôi hai chiếc tank kèm hai bên hông của tôi.
Ông
hỏi:
– Có chắc ăn không
Phán?
Tôi
cương quyết:
– Chắc, và nếu tràn
được vị trí thiếu tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Ðài nếu kịp thời gian.
Tôi
theo tiểu đoàn trưởng lên trình ông Già Hự, Ðại Tá Yên tư lệnh phó. Ông già chấp
thuận.
Tôi
trở về họp các trung đội trưởng: Ngày mai, 8 giờ sáng, Ðại Đội 3 khăn tím bên
trái, Ðại đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm
chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai
đại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu lượm
chiến lợi phẩm, để cho Ðại Đội 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để
lại, trang bị thật nhẹ. Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại chờ tôi.
Ðúng
8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tăng Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi
chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí tác xạ cho hai trưởng xa
người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san bằng mục tiêu
trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tăng chỉ bắn một
phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn,
quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét
khản cả cổ:
– Xung phong!
Cả
một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con
đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua
là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M.60
của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một mình tôi vừa bắn vừa băng qua
đường cùng với toán cận vệ: Can, Việt, Ðiểu và hai thằng mang máy. Qua khỏi đường
xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Ðúng lúc ấy cả đoàn quân đồng
thanh hô xung phong và ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi
và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16 bắn vãi vào chốt,
lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ
inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Ðến 3 giờ chiều,
chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.
Lính
vỗ vai nhau cười làm tôi bắt cười lớn vì xóm nhà này rất quen thuộc với họ.
Lính thường hay đến xóm này rồi về kể nhau nghe con này đẹp, con kia chân dài,
con nọ… Nào khăn, nào thau vứt bừa bãi khắp nơi. Lính vui vẻ kể chuyện tục cho
nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười đầy ham muốn và thèm thuồng,
hơn 40 ngày, từ vùng 4 về giải tỏa Sài Gòn rồi ra đây, không thấy mặt một người
đàn bà, chỉ thấy toàn máu và mồ hôi.
Tôi
ra lệnh.
– Lộc và Sự mỗi ông
cho một toán 10 người băng thật nhanh đến áp sát mặt thành xong ngồi xuống.
Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đồn đồn lên thành.
Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu
cầu.
Con
cái tôi hành động đẹp còn hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, hai toán
lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường
và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc thành, phải khóa
lại. Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của
niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Ðài Huế. Ðây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói
chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to
lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã
Khện chiếm Kỳ Ðài. Ðịch bắn trả. Con cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần tốc tiến
vào Kỳ Ðài. Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri
Thủy Quân Lục Chiến đã làm chủ Kỳ Ðài. Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn ở
trên không. Một thằng lính rút đâu trong người ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật
lớn. Tôi gọi về tiểu đoàn:
– Tất cả đã sạch sẽ,
xin thiếu tá cho tôi treo cờ.
Tôi
nhớ rõ lệnh của Trung Tướng Lê Nguyên Khang:
– Một người lính Thủy
Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại
Phú Vân Lâu.
Trong
niềm vui sướng cùng tột, Hạ Sĩ Hạnh hét lớn: Thủy Quân Lục Chiến! Xong lấy trái
hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng,
Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:
– Em không sao đại
úy!
Phán
nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.
Sau
này tôi được nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Chuẩn Tướng Trưởng xin
Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn 1. Sáng hôm sau ngày 24
Tháng Hai, Phạm Văn Ðịnh dẫn một đơn vị của Sư Đoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm
lễ thượng kỳ.
Nhìn
lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì một
thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này. Trung Úy Sự trình tôi:
– Thằng Hạnh chết,
mình còn 67 người.
Ðại đội ra đi hơn 170 người, sau 24
ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa Sập
và Kỳ Ðài mà bây giờ tôi chỉ còn lại 67 người.
…
Ðược
sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt
rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần
cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Ðài tượng trưng cho Huế. Hai
mươi năm sau, hồi tưởng lại, máu và xương kia đã theo giòng Hương giang cuốn
tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ. Lạy Trời, một ngày nào đó, cũng
Cố Ðô đó, cũng Kỳ Ðài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để
đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi
làm người.
(*)
Bài viết “Huế, Tôi và Mậu Thân” của Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán, Quái Điểu Tiểu
Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến, Quân Lực VNCH, dài gần 8,000 chữ. Tòa soạn Người Việt
chỉ trích đăng những đoạn tiêu biểu.
-----------------------------
Đọc
bài viết đầy đủ ở đây :
Tiểu Đoàn 1 TQLC - Huế, Tôi và Mậu Thân
MX
Nguyễn Văn Phán
No comments:
Post a Comment