09/02/2018 08:55:00
Năm dương lịch 2018 nhằm năm Tuất theo Âm lịch . Phần
lớn người Việt nam quen gọi năm con Chó . Người Pháp cũng gọi năm con Chó –
L’Année du Chien . Nhưng «Tuất» phải có nghĩa là « Chó »
hay không ?
Theo nhà Việt học Nguyễn Cung Thông, thì «Tuất
/ Chó » là biểu tượng chỉ năm thứ 11 trong 12 con Giáp theo Âm lịch . Ông nói rỏ
thêm « Các dữ kiện ngôn ngữ, đặc biệt khi xem lại các từ Hán cổ liên hệ, đều
cho thấy nguồn gốc phi-Hán (không phải của Tàu) như nhiều người đã lầm tưởng từ
Đông sang Tây và qua bao ngàn năm nay » .
Các
hình khắc/vẽ của chữ Tuất cho thấy hình cây kích (bộ qua 戈 là cái mác).
Các dữ kiện ngữ âm trên cho ta một kết luận là Tuất không có liên hệ gì đến
loài chó trong tiếng Hán, phản ánh qua các cách gọi khuyển 犬, cẩu 狗, hiêu/kiêu 獢, hiểm 獫 … So sánh các
quá trình hình thành các chữ khuyển (tượng hình, hình loài thú như chó) và cẩu
(cũng thuộc bộ khuyển) – xem hình bên dưới. Nếu chữ Tuất có nguồn gốc tượng
hình (loài chó như chữ khuyển) thì khó mà đặt vấn đề về nguồn gốc phi-Hán của
tên 12 con giáp.
Các dạng chữ Tuất cổ : https://vietbao.com/images/file/g52gt95v1QgBAN8_/w600/chu-tuat.jpg
Các dạng chữ Khuyển cổ : https://vietbao.com/images/file/64cNt95v1QgBALc7/w600/chu-khuyen.jpg
Tóm
lại, Tuất trong cách gọi năm Tuất (12 con giáp) không có liên hệ nào tới loài
chó hay cách gọi chó trong tiếng Hán như khuyển, cẩu, sử/sứ, li, lang, ngao,
ngan … Tên gọi Tuất (qua một dạng âm cổ phục nguyên *swot đề nghị trong bài
này) liên hệ đến chó có khả năng đến từ phương Nam, như từ ngữ hệ Mon-Khme mà
tiếng Việt cổ là một thành viên quan trọng. …(Nguyễn Cung Thông, Tuất, internet)
Cũng nói về chữ Tuất/Chó, Giáo sư Hán nôm Đại học
Văn Khoa Sài gòn Nguyễn văn Sâm cắt nghĩa rất đơn giản, chắc dễ được nhiều người
chia sẻ hơn . Theo ông, thì « người xưa đặt ra 12 cửa, mỗi cửa đặt
ra cái tên gì đó cho dễ nhớ thôi để chỉ 12 chi trong lịch Tàu. Từ cái tên khó
nhớ Tý, Sửu, Dần.... Người xưa, đặt thêm các con vật vô đó cho người bình dân dễ
nhớ .
Ông
không cho rằng Tý, Sửu, Dần, Mẹo... là tiếng Việt xưa chỉ Chuột, Trâu, Cọp, Mèo
bị biến thể .
Ông
nhắc lại đề 36 con ở Sài gòn ngày xưa, tức «Đề Cổ Nhơn ». Mỗi con số họ
cho ứng với 1 con vật và ứng với một nhân vật của Tàu . Người Việt nam bỏ qua
nhân vật Tàu mà chỉ nhớ con vật thôi . Từ đó mới có số 2 là con ốc, số 31 là
con tôm (ai còn nhớ 2 con vật này ngầm chỉ cái, con gì liên hệ tới con người ?),
và số 35 là con dê...
Chuyện
nầy cũng giống như chuyện thời VNCH, các ứng cử viên Dân biểu đều kèm theo tên
của mình một cái hình biểu tượng. Điều đó không có nghĩa cái tên = cái hình, là
nghĩa của cái hình...
Tóm
lại «Tuất» hoàn toàn không có nghĩa là chó. Nó là tên chỉ một CHI, cửa thứ 11
trong thập nhị chi của lịch Tàu mà thôi» .
Quan điểm
về chó
Chó là con vật có nhiều tên hơn Mèo tuy cả hai đều sống
thân cận với gia chủ. Tên ở đây không phải là tên gọi do gia chủ đặt riêng cho
nó mà đó là những cách gọi khác nhau chủ yếu chỉ nhằm tránh phải gọi “chó”. Người
cựu học thâm nho thì gọi “mộc tồn” vừa cho có chữ nghĩa thánh hiền, vừa biểu lộ
tính “cao quí” của một tầng lớp sinh vật. Phái tân học gọi “cầy tơ” chủ về nền
văn minh phi vật thể ẩm thực của nhơn loại. Kẻ chủ trương hưởng lạc theo trường
phái triết gia Épicure (Hy-lạp ở Athènes trước công nguyên) không ngần ngại quả
quyết đó là “sống trên đời”. Đến thời kháng chiến chống pháp, Việt minh cộng sản
lập thành tích “hạ cờ tây” để chào mừng bác đảng ! Nhơn dân đồng bằng xứ Nam kỳ
nói một cách đơn giản, nhưng rất gần gủi vừa phảng phất mùi «quốc lủi» (rượu
đế) “Nai đồng quê”.
Cách gọi đã khác nhau thì khi đi vào thực tiển, chó
cũng cho loài người nhiều món nổi tiếng khác nhau. Chó có tiếng sủa vang. Loài
người khi luận về chó cũng lắm ý kiến, quan điểm khác nhau, chống đối nhau ỏm tỏi.
Người phương Tây yêu quí chó vì chó là người bạn
trung thành, thông minh, luôn được nhắc tới với ngụ ý tốt. Nhưng chó, theo quan
niệm phương Đông hay Việt Nam nói riêng, không phải trường hợp nào cũng gợi
tới điều hay, ý tốt. Điều đó được thể hiện khá rõ trong kho tàng tục ngữ, ca
dao. Bên cạnh những thành ngữ ca ngợi đức tính trung thành của con chó như “ nhứt
khuyển nhì mã ” thì cũng có những thành ngữ, tục ngữ với hình ảnh con chó hàm ý
không tốt đẹp như “chó dại cắn quàng” hay “giởn chó, chó liếm mặt”. Nếu nói rằng
người Việt ta ai cũng yêu mến, quý trọng chó thì không hẳn đúng. Đến như người
Mỹ, Pháp, Anh, Đức, …có tiếng là thương chó “Gia đình thường gồm có vợ chồng và
con chó” mà vào mùa hè họ vẫn đem chó vứt bỏ ngoài đường để đi nghỉ hè. Hết hè,
trở về lại tìm mua chó nuôi nữa.
Yêu chó, quý chó hay ghét chó, khinh chó. Đó là quan
điểm riêng của mỗi người. Nói ai đúng, ai sai, đều là cách phản ứng chủ quan, nặng
tinh thần phe cánh. Tranh cải nhau lại càng vô lý, vô duyên.
“Cẩu sự” là vậy. Còn “cẩu nhục” thì sao? Thịt chó
đơn giản chỉ là một món ăn !
Trên thực tế sẽ không đơn gìản như vậy. Những người
yêu chó, quý chó thì không nở ăn thịt chó. Chứ không vì minh là người văn minh,
đầy tính nhân bản . Còn người thích ăn thịt chó, thì bảo vệ quan điểm “sống
trên đời không ăn thịt chó, mai kia xuống âm phủ, biết có hay không?”
Thịt cầy,
lịch sử và đạo lý
Làm món thịt cầy (La cynophagie) là một bộ môn thuộc
nghệ thuật làm bếp và văn hóa ẩm thực có từ xa xưa của nhiều xứ á châu như Việt
nam, Tàu, Triều tiên, …và Phi châu. Riêng ở Nam dương, dân công giáo hưởng ứng
nền văn minh ẩm thực này. Phần còn lại, đại đa số là dân hồi giáo thì kiên cử
như kiên cử thịt heo.
Nhiều nước Âu châu phản đối ăn thịt cầy vừa bày tỏ sự
ghê tởm. Vào cuối thế kỷ XX, luật pháp còn ngăn cấm nghiêm ngặt việc giết cầy
làm thịt. Nhiều Hội bảo vệ thú vật ra đời. Ở Pháp có nữ minh tinh Brigitte
Bardot làm Hội trưởng APA (Association de la Protection
des Animaux) hoạt động tích cực. Bà di chuyển bằng phi cơ. Tới kỳ bầu
cử Tổng thống, bà ủng hộ ai, người đó sẽ có nhiều may mắn đắc cử.
Nhưng ăn thịt cầy lại rất phổ biến vào thời cổ đại
la-mã và ờ vài nơi khác. Thịt cầy hầu như chưa bao giờ thật sự vắng bóng ở Âu
châu. Vào đầu thế kỷ qua, người ta còn thấy vài tiệm thịt cầy ở Pháp. Ở cuối thế
kỷ XIX, ở Paris đầy rẩy tiệm thịt cầy. Và chợ bán chó họp chợ ngay trên đường
Saint Honoré, một đường phố sang trọng ngày nay.
Người ta không ăn thịt cầy từ khi những con vật được
phân loại “thú rừng”, “thú nhà” như heo, gà, vịt, … và “thú thân cận” như chó,
mèo, …Tuy nhiên việc ăn thịt cầy dường như ngày nay vẫn còn duy trì trong chốn
riêng tư. Như ở vài vùng quê hẻo lành ở Thụy sĩ. Trái lại, thịt cầy lại được ưu
đải ở Tàu, Triều tiên, Việt nam. Ở Tàu, mỗi ngày có hơn 30 000 con chó bị làm
thịt và mỗi năm có tới hơn 10 triệu con tẩm bổ cho các chú Ba Tàu khá giả. Ở
đây có cả trại chăn nuôi chó thịt. Riêng ở Hồng kông thịt chó bị cấm. Vì ảnh hưởng
nền văn minh anh quốc?
Vài tôn giáo ở Á châu như bà-la-môn, hồi giáo, cấm
ăn thịt chó như thịt heo. Phật giáo ngăn cấm các thứ thịt do cấm sát sanh.
Riêng các hệ phái thiên chúa giáo tỏ ra dễ dải với việc ăn hay không thịt cầy
và các thứ động vật khác.
Không
ăn thịt cầy, không phải người Việt nam?
Trong tháng 4 vừa qua, xảy ra việc tranh cải chung
quanh một dỉa thịt cầy: 1/ Tại sao người Việt nam ăn thịt cầy? 2/ Bạn (là người
Việt nam) có ăn thịt cầy không?
Vì người âu châu ngày nay không còn mấy người ăn thịt
cầy nữa nên câu hỏi đó đặt ra cho một người Việt nam, nhứt là người Việt nam đến
từ Miền Bắc, không thể không hàm ý một biểu hiện kỳ thị.
Thật ra người Việt nam ăn thịt cầy nhưng không phải
ăn bất kỳ loại cầy nào. Họ chỉ ăn loại cầy thịt, tức loại cầy có vóc dáng nhỏ.
Được cầy hương là ngon tuyệt. Thông thường thì vàng hơn mực. Nhưng không có thì
cầy nào cũng được. Còn hơn không ! Loại cầy to lớn của Âu châu, họ không ăn. Một
phần vì thịt không ngon. Mặt khác, loại cầy này được nuôi để phục vụ đời sống
con người nên chúng trở thành thân thiết và hữu ích. Như cầy đi săn, kéo xe, bảo
vệ, chiến đấu, giử nhà, …
Về quan hệ thân thiết giửa người với loài vật thì
người Âu châu có con chó, người Việt nam chúng ta có con trâu : “Trâu ơi,
ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta. Cấy cày vốn việc nông
gia. Ta đây, trâu đó, ai mà quản công” nên người Việt nam kiên cử thịt trâu
cũng giống như người âu châu kiên cử thịt cầy.
Nếu nói rằng người Việt nam có tập quán ăn thịt cầy
ví xứ thiếu chăn nuôi nên thiếu thịt là điều không đúng. Họ ăn thịt cầy vì sở
thích ẩm thực mà không vì thiếu thịt. Đổi cái đùi cầy lấy cái đùi heo, chưa chắc
họ chịu đổi. Đó là điều cho thấy tại sao người viêt nam thích ăn thịt cầy : «Đúng,
thịt cầy rất đặc biệt – miếng thịt cầy thường có đầy đủ các thành phần: nạc có,
mỡ có, da cưng cứng có… nạc không ra nạc, mỡ chẳng ra mỡ - nạc của nó không bã
ra như miếng sắn dây đầy xơ, cũng không phải cắn phòi mỡ ra như thịt lợn béo…
thịt cầy ăn có một vị gây gây, nhưng cái gây gây đó là gây gây dạng ma túy, người
ta hoàn toàn có thể ghiền vì nó được. Miếng thịt bò gây gây, ăn mùa đông nguội
là mỡ có thể đông cứng trên miếng thịt, nhưng miếng thịt cầy làm khéo, kể cả
nguội vẫn mềm và vị gây của nó thì hoàn toàn không bị chán. Chính thứ mỡ màng ấy
của nó, khi nó chảy, cháy trên lửa nướng làm cho nhiều người đang đi đường, hít
mùi mà cầm lòng không đậu, phải dừng bước ghé vào … Đến nỗi câu cầy tơ bảy
món : luộc, nướng, chả, nhựa mận, xáo, đùi nhừ hoặc gan nướng cuốn mỡ
chài, dồi nghe âm vang như lời một giáo chủ hiệu triệu tín đồ vậy » !
Dân ăn thịt cầy sành điệu thường phân biệt ”con chó
với con má”. Theo sự phân biệt này, con chó là con vật khôn. Nó không bao giờ
ăn thịt đồng loại. Còn con má là con vật ngu, gặp thịt là ăn, không biết phân
biệt. Ăn thịt cầy là ăn thịt con má này. Nhưng khi ăn thịt cầy, có ai biết phân
biệt không?
Ở Sài gòn sau 30/4, người dân thường chửi đổng, nhắm
vào VC, những lúc bất mản “Nay là thời chó đẻ”. Nhưng bị sửa lại “Thời chó chết”
mới đúng vì “chó đẻ” là chó còn sống được nên mới đẻ.
Giám mục Seitz phục vụ ở Việt nam, đặc biệt vùng Cao
nguyên, ghi hồi ký gồm 93 trang, hai Phần. Ông bắt đầu ngày 7 tháng 4/1975 với
tựa sách “ Thời chó câm” (Le Temps des chiens muets). Sau đó, ông bị trục xuất
về Pháp (nghe nói ông bị giáo hội rút về để tránh đụng chạm vô ích trong vấn đề
ngoại giao ?) . Ông điều khiển một Chủng viện ở ngoại ô Paris, vùng Marne
la Vallée, đem theo vài chủng sinh gốc Thượng. Trong số chủng sinh này, có người
đậu Cử nhơn Triết ở Sorbonne hiện có vợ đầm, sanh sống ở Vendée, miền Tây-Bắc
nước Pháp. Có ngưòi làm thợ Điện tử nhưng cậu này lúc nào cũng chờ để trở về xứ.
Người sau cùng trở thành Linh mục và hiện phục vụ tại một giáo xứ của Paris XV.
Ai cũng biết khi Hồ Chí Minh tới, chẳng những chó
không dám sủa mà cũng muốn vượt biển nữa . Không riêng gì chỉ có con người !
Vậy năm nay Chó tới, chớ không phải
Hồ Chí Minh tới, thì liệu Bà Con vượt biển sau 30/04/1975 sẽ trở về quê hương
chăng :
…"Chó
mừng tân chủ rỡ ràng
Bôn
phương tấp nập lên đàng hồi hương
Long
Hoa muôn thuở biên cương
Việt
Thường con cháu Tiên Rồng vẻ vang."(*)
(*) Lời Sấm của Bà Liễu Hạnh về cơ dạy về tình hình Vìệt nam năm 1938 được Cụ
Dương Bá Trạc ghi tại Đền ngọc Sơn ở Hà nội, có mặt Lm Lê Quang Oánh .
Nguyễn
thị Cỏ May
No comments:
Post a Comment