Lê Hiếu Đằng - Bauxite Việt Nam
12/08/2013
Thời gian vừa qua,
có dịp vào Sài Gòn, được tin ông Lê Hiếu Đằng phải cấp cứu ở BV Bình dân, tôi
và bạn bè đã đến thăm ông. Chúng tôi nhìn nhau khôn xiết bồi hồi. Sờ bàn chân
ông thấy có hiện tượng phù nhẹ, nhưng trông khuôn mặt thì vẫn rất linh lợi, nhất
là ánh mắt sáng láng, vẫn ngời lên cái khát vọng tha thiết về tương lai dân chủ
hóa cho đất nước. Vài ngày sau tôi nhận được điện của ông, giọng rõ từng tiếng:
“Thưa anh HC, tôi đã ra viện, đã trở về với đội ngũ. Sẽ sớm có bài viết tính sổ
đời mình gửi đến anh”. Bồi hồi sung sướng, tôi vâng lên một tiếng thật to ở đầu
dây bên này, và từ đó cứ chờ đợi bài ông.
Thì hôm nay, bỗng
nhận được bài viết dưới đây trong e-mail với lời gửi gắm kèm thêm nói qua điện
thoại: “Anh sửa chính tả thật kỹ giúp tôi, bởi đối với một người vừa qua cơn
bệnh hiểm nghèo có thể viết còn nhiều lỗi. Nhưng toàn bộ những ý tưởng trong
bài là của tôi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Tôi xin vâng theo
lời ông. Chợt nhớ tới câu châm ngôn mà chính nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã từng
nhắc: “Nhân chi tương tử kỳ ngôn dã thiện”. Người bạn của tôi trong những ngày
vừa qua cũng coi như đã một lần xáp mặt với cái chết và may mắn giải thoát khỏi
nó, nên những lời ông nói ra là tất cả những gì tâm huyết ông muốn gửi gắm cho
đồng bạn và cho lớp trẻ đang tiếp bước mình. Những lời vừa có tính chất ôn lại
chuyện cũ để chiêm nghiệm sự đời cho sâu chín hơn, đồng thời cũng là sự kết
đọng trong nó một lời tuyên ngôn chắc nịch về con đường nhất thiết phải đi để đưa dân tộc thoát khỏi số phận
một chàng Sisyphe suốt đời phải
đẩy khối đá khổng lồ chồng trên lưng mình như một định mệnh – mà một thời vẫn
cứ mê muội ngỡ đó là trách nhiệm và vinh quang do lịch sử giao phó “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa” –
nhưng ở thời điểm hiện tại thì sự quá tải trên mọi phương diện của một cái ách cực kỳ phi lý hầu như bất
kỳ ai cũng cảm nhận được rõ ràng. Và câu nói âm thầm từ muôn miệng hình như
đang cùng muốn thốt lên: Hãy hất nó xuống khe vực để đứng thẳng dậy, sánh bước
cùng nhân loại văn minh.
Xin trân trọng giới
thiệu với bạn đọc.
Nguyễn Huệ Chi
--------------------------
Sau
hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng,
những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học
sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc tôi phải “thanh toán”, “tính
sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển Chuyện nghề của Thủy
của đạo diễn Trần Văn Thủy, các truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi thăm Mỹ
của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn
Quốc, Myanma (Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng này. Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm
sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc, một xã hội
không có bóng người. Chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang không
có những nghi thức cao nhất của một nguyên thủ quốc gia hay chuyến đi thăm Hàn
Quốc, Myanma của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh các chuyến
đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Một bên thì
khô cứng, lạnh lùng của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không khí cởi
mở, vui vẻ bình đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với lòng tự
trọng dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không? Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi
hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công bằng mà nói anh không thể “mở
lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất nhất.
Tất
cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm tôi suy
nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi một điều: con đường mà
tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục đấu tranh cho
lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân chủ. Ở đó con người
sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ người nô lệ thành
người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có
nghĩa như ngày nay người ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự
do dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều đau khổ, bi thảm
nhất là hệ thống cai trị chính là người của dân tộc đó, là Việt Nam, là Trung
Quốc, v.v. Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng
tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có
nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây. Thật sự là Miền Nam đã giải
phóng Miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực nhất là kinh tế, văn hóa, tư tưởng…
Vì những lẽ trên tôi xin “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi,
tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh
bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.
1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào
ĐCS Việt Nam?
Vào
thế kỷ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết bao trí thức, văn
nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân
chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như Montesquieux, Voltaire, Jean
Jacquess Rousseaux, v.v. với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình
đẳng. Chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ
trí thức phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi
lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh,
Thế Lữ, v.v. hay những tri thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn
Mạnh Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà đi vào
chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra sao, nhưng họ
hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ,
xã hội tự do, hạnh phúc mà trong tuyên
ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946 ông HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn
dân trước Ba Đình lịch sử.
Lòng
yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng
8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng thôi thúc bởi những
tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ
cho Tổ quốc để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân,
nông dân, người lao động, những người hy sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường.
Tôi
vào Đảng cũng rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ
trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay
là đường 3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c
Bắc Sơn (bí danh của tôi lúc đó), đ/c từ nay là Đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng
(thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ ra tôi đưa điều lệ
để đồng chí nghiên cứu nhưng đ/c là người hoạt động công khai trong Ban chấp
hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến
một số điều trong điều lệ để đ/c biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt,
cờ quạt gì cả. Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu,
là người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi
tiếng Bảo Quốc. Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi đã
từng tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ
nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm
với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế
lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến
đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến
kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú
họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải
quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba
tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học
của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo,
Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô
Hoàng Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của Nguyễn Đồng Thi
Hiền còn trai trẻ trước 1945 nên gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu
hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình
thứ. Những ngày ba tôi đến đón tôi ra thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong
giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất
nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành
pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có
người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?
Trong
thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ tôi thường hát bài “Tình quê
hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia
đình của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh
nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi
lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó.
Lý Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày rồi đó”.
Về
anh Nguyễn Ngọc Phương – người phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã hy sinh
trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi lần
sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của Hoàng
Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao thích bài
hát ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét đến cùng là
vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao mình không
thích được!”. Nghe anh tôi càng cảm phục người đ/c phụ trách tôi và hôm giỗ anh
tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương
có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn
và im lặng.
Tôi
đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2. Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có
thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa
học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ
tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên
thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng và nhà nước Việt
Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam dưới chế độ quản lý
kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả quy luật tự nhiên, cop-py mô hình kinh tế
của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết.
Các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người
vượt biên ngày càng nhiều và biết bao gia đình phải chết tức tưởi trên biển.
Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng tôi vào chiến khu
và đã hy sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban tuyên huấn T.Ư cục Miền Nam
cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau trận bom ác liệt của F105 của
Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm nhục trước mặt chồng con. Có thể nói tất cả điều đó là
tội ác của Đảng và Nhà nước Việt Nam, không thể nói khác được.
Trước
sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã
chủ trương phải đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành
phần trong đó có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành
phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau
thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là quy
luật tất yếu vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được và như vậy điều 4
Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa. Trước sau gì các vị lãnh đạo của ĐCS phải chấp
nhận thách thức này: các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với ĐCS
trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay
Campuchia đã làm.
Tôi
thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư, trong ban Tuyên huấn của Đảng
mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là Chủ tịch Hội đồng
lý luận Trung ương trả lời luôn một cách công khai, minh bạch với chúng tôi
trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá người” như đã từng thường sử
dụng hiện nay. Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những
khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu
biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu
biểu ở trong Nam ngoài Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các Giáo sư Hoàng Tụy, Chu
Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ
nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung, v.v. Các nhà
kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí
thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi,
Nguyễn Quốc Thái, và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy
lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975
như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ
Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết mặc dầu đời sống kinh tế
đã khá giả, có những người là giàu có nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả
những tiện nghi của đời sống đã vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận
mọi rủi ro, nguy hiểm cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình để dấn thân
vào cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng thời trai trẻ mà hiện nay
đã bị phản bội, chà đạp những lời hứa năm nào trong kháng chiến. Ngoài ra còn
cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những blogger, những sinh viên đang
có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác.
Tình
hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi
Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta hàng trăm
đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng
hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến
khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán.
Tại sao tình hình đã
chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này? Chủ trương không đa nguyên đa đảng
chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này, mà
nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó
là quyền công dân chính đáng của chúng ta. Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa.
Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có
thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của
một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả
chúng ta sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn
hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích
gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại khái trong bất cứ cuộc
chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không
chần chừ, do dự được nữa.
3. Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và
hạnh phúc
-
Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết thực sự.
Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hy sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà
nước Việt Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ
luôn chực nuốt chửng nước ta và vào năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân
Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt
Nam một bài học.
Thật
ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều bài học Chi
Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn Tập Cận Bình có còn
nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo ĐCS và Nhà nước Việt Nam thì
dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt nam nên quá “hiền lành” đối
với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng
thì xoen xoét nói về “bốn tốt mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là
uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang đánh
bắt trong ngư trường truyền thống của mình hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm
dò dầu khí của chúng ta. Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu
nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu của
người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn càng không dám
thực hiện những việc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập đại sứ
Trung Quốc ở Hà Nội để trao công hàm phản đối chứ không chỉ là đưa công hàm đến
toà đại sứ. Vậy thì độc
lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước này chống các nước
khác nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta liên kết với các
nước để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông.
Tôi
rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống
lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt
Nam. Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói
nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành
trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết
đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy
chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong
một bài viết về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.
4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh
phúc
Thực
chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kỳ kháng chiến
hoặc trước 1975 ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành quyền sống. Đây là vấn
đề về con người.
+ Về dân chủ thì đã
quá rõ.
Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn
trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hiến
pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có
Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội
lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo.
Tôi
nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất
cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều
đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một
kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối
lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị, chờ chết mà thôi.
+ Con người khác con
vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì
con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu).
Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật
sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó là vấn
đề quyền con người. Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội tước đoạt tất cả
các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu
mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng. Họ không biết rằng đó
là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế hệ. Đại tá
nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mil
thì vỡ ra nhiều vấn đề”. Vì vậy anh Nguyễn Khãi đã nhìn lại những gì mà anh đã
trải nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất
thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy
các vị “phê bình chỉ điểm” (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ
tịch Hội nhà văn Hà Nội đối với tên Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong
việc “bề hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám
phê phán, chửi rủa.
Các
vị lãnh đạo ĐCS tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc Pháp lại có một thời
báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến nay chưa có thời kỳ nào có
thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp vạn lần” như bà Phó chủ tịch
nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười
cho thiên hạ. Báo chí thì nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam
Phong, Phong hóa, Ngày nay… với những học giả Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ thuật thì có cả một trào lưu thơ mới
với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi
tiếng khác với nhiều bài thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu
thuyết thì có nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…
Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan
Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học”
trong tập Quê mẹ của ông. “Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng
nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức với những
kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác
trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như những đóa hoa tươi mỉm cười giữa bầu
trời quang đãng. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ
tôi âu yếm đắt tay tôi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã
quen đi lại nhiều lần nhưng lần này bỗng nhiên thấy lạ vì hôm nay tôi đi học”.
Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng
Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn
Thương… Thế mà Thanh Tịnh và những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nói trên dưới chế
độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm nào ra hồn.
Cũng
may ra sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo nên trào
lưu hứng khởi để nhạc sĩ VĂN CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu
dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu
người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết quê người…”, thế mà
bài ca này cũng bị cấm hát hết mấy năm. Những năm sau khi vào chơi với Trịnh
Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh
chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương của các
ông đã làm ông buồn bực và tiếp tục uống rượu. Chỉ có một điều an ủi ông là vào
Nam, vào Sài Gòn ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa xuân đầu tiên”,
“Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, v.v. của ông.
Vấn
đề là ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi
tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn
Đình Chiểu, v.v. là việc làm thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp
lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu
tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân.
Ngay
trong lĩnh vực báo chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo
của tổ chức CS làm ngày báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày
số báo đầu tiên của Gia Định báo năm 1865 làm ngày báo chí VN. Năm sau,
một số nhà báo cùng chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS
và các tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không
sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi.
Tại
Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa bình mới lập lại, các văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi
tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu biểu là Trần Dần, Phùng
Quán, Hoàng Cầm,... đã gây chấn động trong vụ Nhân văn Giai phẩm. Có lẽ là
những người trực tiếp chiến đấu chứng kiến cảnh chết chóc của nhân dân trong
chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một chế độ xã hội
tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức, văn
nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng để đòi hỏi tự do sáng tác, đòi
hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ. Nhà nước độc
tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra
tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương tay. Người bị tù với vụ án ngụy
tạo như công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946. Hữu
Loan với lòng tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá
nuôi vợ con. Ba mẹ vợ anh trong cải cách ruộng đất đã bị chôn sống để trâu bò
bừa lên đầu, lên cổ cho đến chết. Một Nguyên Hồng khảng khái bỏ về Yên Thế nuôi
heo để kiếm sống. Trần Hữu Đang sau khi ra tù sống những ngày tủi nhục phải góp
nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung
quanh kiếm cho. Năm 1989, tôi gặp Thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người
đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị
cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quý để sống
qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó chủ tịch thường
trực MTTQ TP HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem
có công an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất vọng vô cùng
về ông.
Tôi
còn có những kỷ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống chính trị của
nhà nước toàn trị. Lúc còn là phó CT/TT MTTQ TP HCM và là đại biểu HĐND TP khóa
4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ ĐCS VN ngày trở
thành kiêu binh. Đâu
đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường
của cơ quan dân cử như HĐND TP thế mà chẳng thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ
thấy một khẩu hiệu to chần dần [to đùng] “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Một số
đại biểu trong HĐND trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không
dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong HĐND khóa 5, khi lên phát
biểu ở Hội trường tôi trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân
dân TP, nhưng tôi không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có ĐCS muôn năm
thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân
thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy tôi đề nghị thay
đổi khẩu hiệu này bằng câu CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng
ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+ Tôi là Trưởng ban
VHXH HĐND TP khóa 5.
Trong các kỳ họp HĐND TP, các ban có bài thẩm định khá công phu. Phải đi thực
tế, làm việc với các ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua Trưởng ban là
người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong một kỳ họp, tôi thức suốt đêm sửa
chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước HĐND. Khi lên phát biểu, nhìn xuống
thì không thấy vị Phó CT nào dự, kể cả phó CT phụ trách VNXH. Thấy vậy tôi không
đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là CT HĐND, cho các thư ký, trợ lý điện
gấp cho các Phó CT, nhất là các Phó CT phụ trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định
chuẩn bị công phu để phân tích những vấn đề, nhất là những vấn đề còn tồn tại,
hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã
hội khác. Những vấn đề có liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân TP. Khi
thấy các Phó CT lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là
lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kỳ họp
nào các PCT UBND cũng đều có mặt trừ một số PCT có lý do chính đáng. Cái bệnh
chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem thường HĐND đã vào máu các vị quan chức của
chúng ta.
+ Việc thứ ba là
cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ tịch UBND TP Võ Viết Thanh và
tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu khẩu gay
gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng thấy Đảng chật hẹp quá thì
xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ nói
trong Đảng, còn đây là HĐND. Giữa lúc có nhiều đại biểu đồng ý với tôi, trong
đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên TVTU, Phó giám đốc Công an TP, Phạm Phương Thảo, Ủy
viên TVTU, Phó CT phụ trách VHXH UBND TP thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban
Thường vụ Thành ủy họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP. Tôi cương quyết đề nghị có
Nghị quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ ở HĐND TP. Tuy
đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng
tính trung thực, quyết đoán của anh.
Lúc
đó tôi với tư cách đại biểu HĐND TP có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban
quản lý thị trường TP để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh
Hùng Vương. Phối hợp với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên TV
Quận ủy Q.6, Trưởng ban Tuyên huấn Q.6. Thắng cũng là dân phong trào SV. Không
hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người gọi là điệp báo của Cục
tình báo TƯ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết
mới về làm Phó bí thư thường trực của TƯ. Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và
trình bày với anh về vấn đề thì anh đề nghị tôi không can thiệp nữa vì danh
sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình báo TƯ của Mỹ. Trước đó có người biết chuyện
ngụy tạo danh sách này và nói danh sách láo được đánh trên giấy Bãi Bằng là
giấy chỉ do Cộng sản sau 1975 sản xuất. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận nhưng
Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6 tính lấy lại nhà của
Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh
xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện chính
trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không ai
lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Q.6 như cũ.
Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao anh không đi
học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam Bộ: “Tôi không
chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự, không như
những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh và tôi rất
vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ.
Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc
nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi
nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ
cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo, tránh né đấu tranh.
Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi để thực hiện một chủ trương cực
kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh: Khai dân trí, chấn dân trí,
hậu dân sinh.
Cuối
cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ cuộc đời
của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị lãnh đạo Đảng CSVN, để
mong các vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay
xu hướng chạy theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã
sụp đổ tan tành ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền,
dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là
cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế lực
phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích
kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lung đoạn nhà nước.
Tôi
không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy
tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc
lên trên hết mà có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của
Đãng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Tôi
quan niệm rằng làm nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cương quyết đấu tranh cho
một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng thực hiện những lý tưởng
của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước VN hòa bình, độc lập, tiến bộ
xã hội, văn minh và giàu mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân mạnh lên,
đủ sức kìm hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị.
Trước mắt là phải “chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không
sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài
viết nầy cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí thức,
các văn nghệ sĩ, các bạn TNSVHS mà tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một
điều: với lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta
phải hành động. Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa
đứng bên này hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có
người VN khát khao với một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái xấu nên đã
có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN và CNXH. Vấn đề là trước đây chúng ta
chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề sống còn của đất nước
nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng
ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước đây. Nhận thức lại và dấn thân hành
động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu
sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch
sử. Còn chúng ta trước mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này tôi
nói một lần rồi thôi…
Viết
trong những ngày nằm bịnh.
L.H.Đ.
-Nguyên phó TTK Ủy
ban TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
-Nguyên phó CT Ủy
ban MTTQ VN TP.HCM (từ 1989-2009)
-Đại biểu HĐND TP
khóa 4, khóa 5
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment