Posted on Tháng Tám 17, 2013
Hiện nay theo thông tin của các
phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan Đảng, Nhà nước ở địa phương
cũng như Trung ương đang nhìn lại việc thực hiện 15 năm Nghị quyết trung ương 5
khóa 8 (1998), đánh giá các thành công và bất cập để rút kinh nghiệm. Tôi muốn
nêu một nhận xét riêng. Nhìn chung, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân nói
chung được tăng lên, internet mở thêm không gian cho đời sống tinh thần, một bộ
phận nông thôn có diện mạo mới, nhiều di sản được tôn vinh, nhiều lễ hội được
tổ chức hầu như liên tục, nhưng nhìn sâu vào xã hội thì ai ai cũng thấy văn hóa
Việt Nam đang xuống cấp nghiêm trọng, mà còn đe dọa đi tới khủng hoảng. Trong
xã hội sự phân hóa gay gắt chưa từng có, chủ nghĩa cá nhân cực đoan hoành hành,
lợi ích nhóm chi phối đời sống xã hội, các di tích văn hóa liên tục bị xâm hại,
môi trường thiên nhiên bị phá hoại, quan hệ người với người phổ biến là
lãnh cảm. Trong xã hội, cái xấu, cái ác lên ngôi. Hình ảnh Việt Nam có nhiều
điều phản cảm trong mắt bạn bè quốc tế. Văn hóa như thế có thể nói chẳng những
chưa phù hợp với tiêu chí tiên tiến, mà cũng chưa đậm đà bản sắc dân tộc. Có
thể nói về cơ bản, văn hóa Việt Nam thiếu hẳn sự đa dạng.
Sở dĩ thế là vì theo tôi, nghị
quyết mang tính chất công thức, áp đặt, xa rời thực tế. Ở đây có nhiều điều cần
được suy nghĩ, tuy nhiên ở đây tôi chỉ xin nêu một điểm. Điểm 3 trong 5 quan
điểm lãnh đạo văn hóa của Đảng ghi: “Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.” Đa dạng về dân tộc, sắc tộc là đúng , nhưng đó chỉ là một nội dung
quan trọng của đa dạng văn hóa. Bên trong văn hóa mỗi dân tộc cũng đa dạng. Ở
đây chưa nói gì về đa dạng xã hội, về tôn giáo, tư tưởng, về các khuynh hướng
tư tưởng, các trường phái, các trào lưu văn học nghệ thuật, các phong cách cá
nhân. Mà không nói đến các phương diện đa dạng này thì chúng ta khó tránh việc
xây dựng một nền văn hóa đơn nhất, đơn điệu theo mô hình xã hội chủ nghĩa của
mình, do mình nghĩ ra, hạn chế sự đa dạng vốn có của nó. Nghị quyết cũng khẳng
định sự nghiệp văn hóa là của toàn dân, mà toàn dân là một thể rất đa dạng,
không đơn nhất.
Năm 1995 Unesco công bố báo cáo
về Tính đa dạng về sức sáng tạo của chúng ta, trong đó đề xuất quan điểm
phát triển đa nguyên văn hóa, nhấn mạnh giao lưu đối thoại là nền tảng của cộng
sinh. Theo Báo Điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 15/5/2003 cho biết ngày
3/11/2002, Đại hội đồng UNESCO đã ra Tuyên bố toàn cầu về Đa dạng văn hoá,
188 nước tham dự đã kí, khẳng định, đối với nhân loại tính đa dạng văn hóa cũng
giống như tính đa dạng trong giới tự nhiên là một điều kiện không thể thiếu để
duy trì sự cân bằng của sự sống. Tính đa dạng là di sản chung của loài người.
Ngày 9 tháng 12 năm 2005 Ủy ban Unesco Liên hiệp quốc lại họp đại hội lần thứ
33 kí Công ước bảo hộ và xúc tiến các hình thức biểu hiện văn hóa đa dạng,
gọi tắt là Công ước về đa dạng văn hóa. (Convention on the Protection
and Promotion of the Diversity of Cultural Expressions ). Các văn kiện ấy
đều nói lên tầm quan trọng của đa dạng văn hóa xét từ nhiều góc độ.
Không biết nước Việt Nam ta có
tham gia kí kết các văn kiện ấy không, vì chúng tôi chưa tiếp xúc được với văn
bản có các chữ kí ấy. Theo trích dẫn của tài liệu trên, ông F.Moyor, nguyên
Tổng Giám đốc UNESCO, nêu định nghĩa văn hóa được nhiều nước chấp nhận là: “Văn
hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng
đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động đó hình thành nên hệ
thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố các đặc tính
riêng của dân tộc”. “Văn hoá nên được xem là một tập hợp các đặc điểm nổi bật
về mặt tinh thần, vật chất, trí thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã
hội, và ngoài văn chương và nghệ thuật thì văn hoá còn bao gồm lối sống, cách
thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”. “Đa
dạng văn hoá hết sức cần thiết đối với nhân loại, tương tự như sự cần thiết của
đa dạng sinh học đối với thiên nhiên”. “Bảo vệ đa dạng văn hoá là điều thiết
yếu về mặt đạo đức và không thể tách rời sự tôn trọng phẩm giá con người”. “Các
quyền về văn hoá được coi là bộ phận không tách rời của các quyền con người và
là sự đảm bảo cho đa dạng văn hoá”. “Mọi người đều được quyền tiếp cận với đa
dạng văn hoá” “Di sản dưới mọi hình thức phải được bảo vệ, phát huy và chuyển
giao cho các thế hệ tương lai như là một hồ sơ lưu giữ kinh nghiệm và khát vọng
của con người, nhằm khuyến khích tính sáng tạo ở mọi hình thức đa dạng của nó
và thúc đẩy sự đối thoại thực sự giữa các nền văn hoá”. Các tư tưởng ấy cho
thấy, trong xã hội hiện đại quan niệm giá trị của mọi người có xu thế đa nguyên
hóa, các loại văn hóa tiêu biểu cho nhu cầu lợi ích của các quần thể khác nhau,
vì thế mà văn hóa phát triển có diện mạo đa dạng. Các cá thể, các tầng lớp khác
nhau, đoàn thể khác nhau, các lứa tuổi khác nhau cũng có các nhu cầu văn hóa
khác nhau. Tính đa dạng văn hóa có hai tầng bậc, một là đa dạng trên phạm vi
thế giới, đó là đa dạng về văn hóa các dân tộc. Hai là trong phạm vi một dân
tộc văn hóa cũng đa dạng, không chỉ đa dạng về sắc tộc, mà đa dạng về các hình
thức biểu hiện đa dạng theo các loại chủ thể. Văn hóa ngoại biên của các quần
thể dân cư là biểu hiện nổi bất của tính đa dạng và hình thức biểu hiện trong
một nền văn hóa dân tộc.
Có một câu hỏi thường được nêu
ra là vì sao chúng ta chưa có các tác giả văn học, các học giả có tầm cỡ khu
vực và thế giới? Trong khi đó nhiều người Việt lập nghiệp ở nước ngoài thì lại
có khả năng trở thành tác giả lớn như Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng, Trịnh Xuân
Thuận, Ngô Bảo Châu? Có thể nghĩ rằng những người đó, nếu ở trong nước chẳng
những thiếu điều kiện cho các giải pháp lớn, thiếu không gian học thuật để cùng
sáng tạo, mà về nghệ thuật, chắc chắn sẽ bị phê bình thế này thế nọ, không sát
với hiện thực, không thể hiện nhân vật chính diện của thời đại ta. Có thể nghĩ
rằng ở trong nước, chúng ta quen “suy nghĩ trong những điều đảng nghĩ”, các ý
nghĩ khác đều bị coi là ngoài luồng, phi chính thống. Do vậy chỉ có Đảng là tác
giả duy nhất, còn những người khác buộc phải ở vào địa vị, nói theo, nói dựa
những điều đảng nghĩ thì mới có lí do tồn tại. Và như vậy là sẽ tự nguyện từ bỏ
quyền trở thành tác giả của mình. Một đất nước mà về văn hóa chỉ có một tác giả
thì tất nhiên là khó tránh nghèo nàn đơn điệu rồi. Tất nhiên văn học ta vẫn có
nhiều người viết văn tài hoa, nhưng đó chủ yếu là hình thức, họ không có tư
tưởng thật sự đặc sắc và bút pháp thực sự mới mẻ, hoặc nếu có thì không được
thừa nhận. Tài năng của họ vì nhiều lí do mà không được đẩy lên tột độ, tột
đỉnh. Nhà văn Nguyên Ngọc trong một bài báo ngắn gần đây nhắc lại lời của ông
Trần Độ có nói, muốn có nhà văn lớn thì phải có trường phái mới. Đó quả thật là
một tư tưởng sáng tỏ. Chùng nào chúng ta chưa thừa nhận sự đa dạng nhiều mặt
của văn hóa như là bản sắc của nó, thì văn học chúng ta khó có đổi thay về
chất. Một đặc điểm của các tác giả lớn là họ muốn đi con đường mới, con đường
khác, con đường riêng so với con đường đã biết, mà một điều như thế rất khó khó
thực hiện ở Việt Nam.
Coi trọng và bảo hộ sự đa dạng
văn hóa thì phải thừa nhận văn hóa ngoại biên. Một quốc gia mà chỉ thừa nhận có
văn hóa chủ lưu, đánh mất sự đa dạng văn hóa thì cũng có nghĩa là đánh mất năng
lực sáng tạo mới của nền văn hóa. Một nền văn hóa đơn nhất, đơn điệu là không
thích hợp với sự sinh tồn, phát triển của xã hội hiện đại. Mong rằng nhân dịp
tổng kết này các nhà lãnh đạo của đất nước cần kịp thời rút ra kinh nghiệm cần
thiết.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7, bổ sung ngày 15 tháng 8 năm 2013
No comments:
Post a Comment