Đọc tuyên
bố chung giữa Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang ký ngày 21 tháng Sáu vừa
qua mới thấy số phận chùm gởi CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già Cộng Sản
Trung Quốc đến mức độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ
trong một văn bản gồm 8 điểm nhưng có tổng cộng 29 lần “nhất trí”.
Hai bên “nhất trí” không chỉ các chính sách đối nội
nhằm duy trì quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng CS mà còn “có lập trường
tương tự và gần nhau trong nhiều vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm”
trong đó có cả vấn đề Đài Loan, một vấn đề thuộc nội bộ Trung Quốc không dính
líu gì đến Việt Nam.
Tưởng cũng nên nhắc lại. Năm 1958, vì quá nhiệt tình
nịnh bợ đàn anh CSTQ trong tranh chấp với Mỹ về vấn đề Đài Loan, Bộ Chính Trị
đại hội II của đảng CSVN đã chỉ thị Phạm Văn Đồng viết công hàm “ghi nhận và
tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.” So sánh nội dung của tuyên bố
chung lần này với các văn bản theo đuôi Trung Quốc của các thập niên 1950, 1960
không khác nhau nhiều. Thời gian cách nhau hơn nửa thế kỷ nhưng mức độ khiếp
nhược của CSVN đối với đàn anh CSTQ vẫn không thay đổi.
Vấn đề tranh chấp biển Đông là vấn đề nóng bỏng
nhất, Trương Tấn Sang thay vì khẳng định việc quốc tế hóa, mở rộng vấn đề biển
Đông sang các diễn đàn quốc tế như Philippines đang làm, lại cũng “nhất trí”
thu hẹp vấn đề trong phạm vi hai nước “nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế,
không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt
đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai
nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các
vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình, ổn định
tại Biển Đông.”
“Hòa bình” và “ổn định” là hai thuật ngữ ngoại giao
bắt đầu từ chủ trương Đặng Tiểu Bình đã được lập đi lập lại trong hầu hết các
văn bản về chính sách đối ngoại của CSTQ.
Từ nhiều năm nay, Trung Quốc một mặt kêu gọi “hòa
bình” và “ổn định” nhưng mặt khác đã cho dời từng cây cọc trên vùng biên giới,
lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san hô, từng hòn đảo nhỏ trên biển Đông. Cái hèn hạ và tin tiện của đám lãnh đạo CSTQ là chúng chỉ
biết ăn hiếp những đám lãnh đạo cũng hèn hạ và ti tiện tương tự, trong trường
hợp này là CSVN và chỉ biết ăn cắp vặt để các cường quốc không đủ lý do đặt vấn
đề và các biến cố do chúng gây ra không đủ tầm vóc để được quốc tế quan tâm.
Bài học chính trị, kinh tế, quân sự từ thời thượng
cổ đến nay đều cho thấy, đương đầu với kẻ thù lớn mạnh, chọn lựa cần thiết của
các quốc gia nhỏ yếu là liên kết chặt chẽ với nhau và đồng minh với các nước
lớn khác có quyền lợi mâu thuẫn với kẻ thù.
Dĩ nhiên giới lãnh đạo CSVN biết chiến lược quen
thuộc đó nhưng tham vọng quyền lực của đảng CS và túi tham cá nhân, băng đảng
không đáy đã làm mờ mắt họ, che mất tầm nhìn của họ vào các thế hệ tương lai
con cháu giòng giống Việt.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc là
chỗ dựa duy nhất và cũng là cuối cùng của đảng CSVN. Từ đó đến nay, các chính
sách của đảng, từ các đổi mới kinh tế, xã hội cho đến các quan điểm chính trị,
tư tưởng gần như rập khuôn Trung Quốc.
Giới lãnh đạo CSVN quá lo cho nồi cơm riêng của họ
đến nỗi quên rằng Trung Quốc cũng có nhiều thách thức kinh tế xã hội và hạn chế
chính trị nội bộ cần phải vượt qua để có thể duy trì tốc độ phát triển kinh tế
hiện nay và tiếp tục cạnh tranh với Mỹ, Nhật, Đức.
Kỹ thuật quân sự của Trung Quốc tiến xa so với thời
kỳ chiến tranh với Việt Nam tháng Giêng 1979 nhưng điều kiện kinh tế toàn cầu
ngày nay cũng đã làm cho các cường quốc phụ thuộc vào nhau nhiều hơn so với 30
năm trước. Ngoài ra, các vấn đề môi sinh, ô nhiễm, khan hiếm năng lượng đang là
những mối đe dọa trầm trọng tại Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến cán cân thương
mại quốc gia trong tương lai gần.
Quốc gia nào cũng cần ổn định để phát triển nhưng
Trung Quốc cần ổn định hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng.
Mặc dù viện trợ 2 tỉ đô la hàng năm để nuôi dưỡng
chế độ độc tài man rợ của gia đình họ Kim nhưng chính Trung Quốc lại là một
trong những nước lo lắng nhất khi họ Kim ra lệnh thử đầu đạn hạt nhân bất chấp
lời can gián của Bắc Kinh. Bởi vì, nếu chiến tranh Nam Bắc Hàn lần nữa xảy ra,
ngoài làn sóng tỵ nạn khổng lồ sẽ tràn ngập biên giới phía đông bắc Trung Quốc,
hạ tầng kinh tế gầy dựng bấy lâu nay của Trung Quốc sẽ sụp đổ và có thể cả toàn
bộ thượng tầng kiến trúc chính trị cũng sẽ tiêu vong theo. Giới lãnh đạo Trung
Quốc còn ôm mối lo canh cánh khác bên lòng rằngTrung Quốc tuy là một nước lớn
nhưng thường bị các nước nhỏ xâm lăng và cai trị nhiều chục năm, thậm chí hàng
trăm năm như dưới các triều đại Mãn Thanh. Sự tan rã của đế quốc CSTQ chỉ là
vấn đề thời gian.
Tuyên bố Việt-Trung mang nội dung ươn
hèn và khiếp nhược của lãnh đạo đảng CSVN trước thiên triều CSTQ là lời cảnh
tỉnh cuối cùng đối với những người đang còn ngóng cổ trông chờ, còn đang van
xin thỉnh nguyện đảng CS sớm hồi tâm, hướng thiện mà còn là tiếng chuông gõ
nhịp vào lương tri của cả dân tộc.
Như kẻ viết bài này kết luận trong bài “Ai
Giết 9 Ngư Dân Thanh Hóa?”trước đây, chỉ có một Việt Nam văn minh
dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện
đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Quốc mà bất cứ
một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ
Việt Nam. Do đó, thay vì van xin, thỉnh nguyện đảng CS, những ai quan tâm đến
đến tiền đồ đất nước nên dứt khoát tập trung toàn lực vào việc thay đổi cơ chế
chính trị độc tài CSVN hiện nay.
Nếu không làm được thế, rồi không chỉ 9 ngư dân
Thanh Hóa, không chỉ Hoàng Sa, Trường Sa, mà cả dân tộc lại sẽ chìm đắm trong
họa đồng hóa của thời đại mới. Và khi đó, đừng đổ thừa cho Trung Quốc mà chính
sự nhu nhược, yếu hèn, mê muội trong mỗi chúng ta đã giết chết 9 ngư dân Thanh
Hóa, giết chết chính chúng ta và dân tộc Việt Nam.
No comments:
Post a Comment