Dave
DeForest - VOA
06.10.2012
Những
hành vi bị nhiều người cho là hung hãn của Trung Quốc trong vụ tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ ở Biển Đông có thể dẫn tới chiến tranh. Đó là nhận định của một
số các nhà quan sát khi họ nhìn lại cuộc chiến tranh cách nay hơn 30 năm giữa
hai lân bang theo chủ nghĩa Cộng Sản có mối quan hệ khắng khít, thường được mô
tả là “môi hở răng lạnh”.
Vùng màu vàng trên
bản đồ này là vùng Bắc Kinh tuyên bố thuộc chủ quyền trên Biển Ðông
Những
đòi hỏi chủ quyền chồng chéo nhau ở Biển Đông có nhiều tài nguyên thiên nhiên
tiếp tục gây căng thẳng cho các mối quan hệ giữa Trung Quốc và một số các nước
láng giềng của họ ở Á châu, trong đó có Việt Nam.
Những
vụ tranh chấp như vậy giữa Trung Quốc và Việt Nam đã diễn ra trong nhiều thế
kỷ. Nhưng đến cuối thập niên 1970, sự hiềm khích giữa đôi bên đã bùng lên thành
một cuộc xung đột vũ trang có nhiều chết chóc, với cuộc chiến tranh thường được
gọi là cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979.
Trung
Quốc đã dùng yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa
làm một trong các lý do để xâm lăng Việt Nam, tuy cuộc chiến tranh đó diễn ra
sau một loạt những vụ đụng độ ở biên giới hai nước và những hành động quyết
liệt của Việt Nam ở Campuchia.
Tại
Campuchia lúc đó, chế độ Khmer Đỏ tàn bạo đã phát động một chiến dịch khủng bố
trên cả nước. Chiến dịch diệt chủng này rốt cuộc đã gây tử vong cho hơn 2 triệu
người. Khmer Đỏ có được sự hậu thuẫn của Trung Quốc nhưng bị Liên Xô phản đối.
Việt Nam có được sự hỗ trợ của cả Trung Quốc lẫn Liên Xô trong cuộc chiến tranh
với Hoa Kỳ, nhưng dần dần tránh xa Trung Quốc trong những năm giữa thập niên
1970 và nghiêng hẳn về phía Liên Xô. Việt Nam tiến quân sang Campuchia cuối năm
1978 và nhanh chóng lật đổ chế độ Khmer Đỏ.
Ông
Lý Tiểu Binh, Khoa trưởng Phân khoa Sử Địa của Đại học miền Trung Oaklahoma,
cho biết lãnh tụ Trung Quốc lúc đó là ông Đặng Tiểu Bình đã tức giận trước hành
động của Hà Nội và quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Giáo
sư Lý: “Vì ảnh hưởng ngày càng tăng của Việt Nam trong khu vực, cộng với việc
xâm lăng Campuchia và sự hợp tác với Liên Xô, nên ông Đặng Tiểu Bình và Trung
Quốc e rằng Việt Nam có thể bành trướng thế lực của mình tới những khu vực
khác, kể cả Biển Nam Trung Hoa”.
Trung
Quốc cũng tố cáo Việt Nam bách hại Hoa Kiều và lên tiếng chống đối việc Việt
Nam chiếm đóng những hòn đảo của quần đảo Trường Sa.
Đầu
năm 1979, ông Đặng Tiểu Bình đi thăm Hoa Kỳ và bày tỏ sự bất mãn đối với Việt
Nam. Ông nói với các giới chức ở Washington rằng “những đưa trẻ không nghe lời
cần phải đánh đòn”.
Lính
Trung Quốc bắt đầu tràn qua biên giới Việt Nam hồi tháng hai năm 1979. Phía
Việt Nam gọi đây là cuộc chiến “chống bá quyền Trung Quốc” trong lúc Bắc Kinh
gọi cuộc xung đột vũ trang này là “Cuộc phản kích tự vệ chống lại Việt Nam”.
Giáo
sư Lý Tiểu Binh nói rằng Trung Quốc muốn mô tả cuộc chiến này là một cuộc chiến
tự vệ.
Giáo
sư Lý: “Trung Quốc muốn biện minh cho hành động của mình. Họ muốn mọi người tin
rằng cuộc chiến tranh này có tính chất phản ứng tự vệ để đáp lại chính sách
hung hãn của Việt Nam”.
Tiến
sĩ Lý Tiểu Binh cho biết ông Đặng Tiểu Bình muốn dùng cuộc chiến tranh với Việt
Nam để tranh thủ sự ủng hộ của quân đội Trung Quốc.
Giáo
sư Lý: “Có vấn đề giữa hàng ngũ lãnh đạo mới của ông Đặng Tiểu Bình và quân
đội. Quân đội than phiền là họ không được lợi lộc gì trong các nỗ lực cải cách.
Họ nói rằng trong lúc tiến hành cải cách họ đã không nhận được các nguồn lực để
phát triển. Thậm chí họ còn cho rằng họ là nạn nhân của phong trào cải cách”.
Ông
Lý Tiểu Binh nói rằng ông Đặng Tiểu Bình đã để cho quân đội có được một cơ hội
để chứng tỏ khả năng và cho phép họ tự soạn thảo kế hoạch xâm lăng Việt Nam.
Tuy
nhiên, cuộc xâm lăng đó lại nêu bật sự yếu kém của quân đội Trung Quốc. Họ chỉ
tiến được vào lãnh thổ Việt Nam khoảng 8 kilomet, tuy đã gây thiệt hại nặng cho
một số thành phố ở biên giới. Đà tiến của những toán quân Trung Quốc đã bị
khựng lại khi gặp phải sự kháng cự kịch liệt của phía Việt Nam, những người đã
tận dụng được các kỹ năng đánh du kích mà họ đã trui luyện trong cuộc chiến
tranh với Hoa Kỳ. Trung Quốc đã gánh chịu tổn thất nhân mạng rất lớn và phải
rút về nước sau 29 ngày.
Giáo
sư Lý: “Đó là một thảm họa nhục nhã đối với quân đội. Thương vong ở mức cao,
không theo đúng kế hoạch, thông tin liên lạc tồi tệ, tính toán sai lầm, vân vân
…”.
Về
mặt công khai, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng. Nhưng phía Trung Quốc biết
rõ là quân đội của họ có nhiều khiếm khuyết. Không lâu sau đó, Bắc Kinh đã thực
hiện một chương trình để hiện đại hóa quân đội của mình.
Giáo
sư Lý: “Quân đội nhận ra rằng họ đã bị lỗi thời. Tinh thần chiến đấu binh sĩ
rất thấp. Các hệ thống của Liên Sô không hoạt động có hiệu quả. Khi đó họ còn
dùng các loại khí tài của Liên Xô. Vì vậy cho nên họ đã sẵn sàng chấp nhận đề
nghị cải cách quân đội.
Giáo
sư Lý Tiểu Binh cho rằng qua cuộc chiến năm 1979 Trung Quốc lại một lần nữa
chứng tỏ với các nước láng giềng là họ sẵn sàng sử dụng vũ lực để giải quyết
những vụ tranh chấp lãnh thổ.
Nhiều
năm sau khi chiến tranh chấm dứt, những vụ đụng độ ở biên giới Việt-Trung vẫn
tiếp diễn và quan hệ song phương tiếp tục bị căng thẳng. Mãi cho đến năm 1986,
với bối cảnh của sự thay đổi hàng ngũ lãnh đạo ở Bắc Kinh và Hà Nội và các phong
trào cải cách ở Nga, Trung Quốc và Việt Nam đã đồng ý gác qua một bên những vụ
tranh chấp để tập trung nỗ lực vào công cuộc phát triển hòa bình.
Công
cuộc phát triển đó giờ đây đã bị đe dọa bởi những hành động có tính chất kịch
liệt của Trung Quốc để chống lại điều mà họ cho là những mối đe dọa đối với
lãnh thổ của họ ở Biển Đông. Các nhà quan sát cho rằng những hành vi gây nhiều
sóng gió có thể làm cho Trung Quốc rơi vào một cuộc xung đột với các nước láng
giềng cũng có yêu sách chủ quyền ở vùng biển rất quan trọng cho hoạt động
thương mại của cả thế giới này.
Dave DeForest
VOA
VOA
No comments:
Post a Comment