Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBCVietnamese.com từ ĐH
Berkeley
Cập nhật: 13:08 GMT - thứ tư, 12 tháng 9, 2012
Viện Nghiên cứu
Đông Á (Institute of East Asian Studies, IEAS) và Trung tâm Nghiên cứu Trung
Hoa (Center for Chinese Studies) của Đại học Berkeley đã phối hợp tổ chức hội
thảo liên quan đến Biển Hoa Nam, Việt Nam gọi là Biển Đông, vào hai ngày 7 và 8
tháng Chín 2012 vừa qua.
Với chủ đề The South China Sea: Re-assessing Regional Order in Asia – Biển Đông:
Tái thẩm định trật tự khu vực ở châu Á, chương trình hội thảo chia
làm 5 phần, gồm 12 bài nghiên cứu được trình bày và thảo luận.
Ngoài học giả
trình bày, tham luận đoàn gồm các giáo sư Đại học Berkeley là Wen-hsin Yeh giám
đốc IEAS, TJ Pempel cựu giám đốc IEAS, Lowell Dittmer chủ biên tạp chí Asian
Survey, Penny Edwards, Richard Buxbaum, Harry Scheiber, Alex Wang và Su Lin Lewis.
Những nghiên cứu
đưa ra dữ kiện về pháp luật, hoạt động thương mại, ngư nghiệp, địa chất từ
nhiều thế kỉ trước cho đến những căng thẳng tranh chấp gần đây mà theo tiên
đoán từ hai thập niên trước, đáng ghi nhất là của Michael Klare, là có thể sẽ
có “chiến tranh tài nguyên” trên Biển Hoa Nam.
Tuy nhiên nhận
định của các diễn giả đều cho rằng dù có những xung đột, một phần bị truyền
thông gần đây thổi phồng quá mức, và vì những ngôn ngữ mang tính dân tộc cực
đoan, hiếu chiến của Trung Quốc nhưng một mặt khác đã có rất nhiều nỗ lực của
các bên nhằm giải quyết tranh chấp trong tinh thần hoà bình.
Nỗ lực gìn giữ hòa bình
Giáo sư Chong-pin Lin, cựu thứ trưởng quốc phòng Đài Loan,
dẫn chứng Việt Nam và Trung Quốc có đụng độ trên biển, nhưng hai quốc gia đã mở
diễn đàn tiếp xúc ở các cấp, lập đường dây nóng giữa hai bộ quốc phòng để giải
quyết trong tinh thần hoà bình. Tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật về đảo Điếu
Ngư cũng thế, ông tin là sẽ được giải quyết ôn hoà.
Hoa Kỳ giờ chú
trọng đến châu Á nhiều hơn, nhưng chính sách của Trung Quốc không đổi, theo
giáo sư Lin đó là “tranh đấu quyết liệt nhưng không làm đổ vỡ quan hệ hai nước,
một chính sách có từ thời Đặng Tiểu Bình nay vẫn được lãnh đạo Trung Quốc áp
dụng.”
Về những động
thái gần đây, ông cho rằng khi nội bộ lãnh đạo bị coi là yếu kém thì Trung Quốc
thường hung hăng trong đối ngoại. Ông nói: “Vụ Bạc Hy Lai đã được giải quyết,
việc chuyển giao quyền hành sẽ tốt đẹp trong những tháng tới. Đó là dấu chỉ
Trung Quốc sẽ bớt hung hăng.”
Giáo sư Lin nhận
định: “Các nước trong khu vực cần Trung Quốc để phát triển kinh tế nhưng về an
ninh cần Hoa Kỳ” và các quốc gia trong vùng phải can dự để giảm nguy cơ chiến
tranh.
Ông dẫn chứng sự
trừng phạt của Trung Quốc đối với Philippines trong tranh chấp trên vùng bãi
cạn Scarborough qua việc đưa du khách về và hủy bỏ các hợp đồng nhập cảng chuối
và xoài từ Philippines đã ảnh hưởng nặng đến kinh tế.
Trường hợp Việt
Nam, ông tiết lộ: “Lãnh đạo Việt Nam đã bí mật đi Washington ba lần. Tuy nhiên
trước và sau những chuyến đi Mỹ, lãnh đạo Việt Nam lại đều phải qua Trung Quốc
bàn thảo về quan hệ.”
Liệu Hoa Kỳ sẽ có can thiệp quân sự
vào khu vực? Bài thuyết
trình của giáo sư Micah Muscolino từ
Đại học Georgetown bàn về xung đột năng lượng trong vùng từ 1975 đến 1980 cho thấy
Hoa Kỳ không muốn can thiệp quân sự. Qua tranh chấp tại Reed Bank giữa
Philippines và Trung Quốc vào cuối thập niên 1970 – Việt Nam và Đài Loan cũng
có can dự – khi Philippines cho công ty Thụy Điển vào khoan giếng dầu khiến
tình hình căng thẳng, nhưng khi lãnh đạo Philippines yêu cầu xác định thì Hoa
Kỳ nói sẽ không can thiệp quân sự.
Tại sao gần đây Trung Quốc trở nên
hung hăng ở Biển Hoa Nam là điều mà giới nghiên cứu quan tâm. Giáo sư David
Rosenberg của Đại học Middlebury cho rằng vì nhu cầu xăng dầu của nước này tăng
vọt. Số liệu được dẫn chứng từ năm 2000 đến năm 2020 số người sử dụng xe ô-tô
tại Trung Quốc sẽ tăng từ 5 người trong 1.000 lên 52 trong 1.000 tức là gấp hơn
10 lần nên Trung Quốc sẽ cần nhiều xăng dầu.
Lượng dầu dưới
Biển Hoa Nam là bao nhiêu, theo giáo sư
Donald K. Emmerson từ Đại học Stanford thì có khác biệt về số liệu do Hoa
Kỳ và Trung Quốc đưa ra. Ước tính của Mỹ là 28 tỉ thùng, Trung Quốc đưa ra con
số 213 tỉ. Lượng hơi đốt, Trung Quốc ước tính cũng cao hơn Hoa Kỳ gấp ba, bốn lần.
Trung Quốc có đủ
kỹ thuật để khai thác hay không là một phần của bài toán về tài nguyên thiên
nhiên khu vực.
Giáo sư Ben Purser, cựu nhân viên tình báo hiện giảng
dạy tại Đại học Colorado cho biết “giàn khoan HYSY-981 không phải là vũ khí
chiến lược của Trung Quốc vì khai thác dầu trên biển rất khó và tốn kém mà chỉ
có một số ít công ty hiện có kỹ thuật này.”
Nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong vùng ngoài dầu khí còn là hải sản. Giáo sư Purser nói “Đội
thuyền đánh cá của Trung Quốc không phải chỉ hơn 225 nghìn con tàu đăng ký hay
treo cờ Trung Quốc mà thực sự là 675 nghìn, trong đó có những con tàu khổng lồ
là những nhà máy sản xuất hải sản ngay trên biển.”. Tuy nhiên những thuyền đánh
cá liên quan đến xung đột trong Biển Hoa Nam là con số rất nhỏ, chỉ 0,01% của
đội ngư thuyền Trung Quốc. Dù rất ít, nhưng đó là cách xác định chủ quyền trong
vùng biển tranh chấp.
Chưa có giải pháp
Bài nghiên cứu
của giáo sư Ramses Amer từ Đại học
Stockholm gửi đến hội nghị, vì ông không thể đến dự, cho rằng các hiệp ước về
biên giới và Vịnh Bắc Bộ năm 2000 là cách giải quyết tốt đẹp, trong tinh thần
16 chữ vàng được ông nhắc đến.
Về phương diện
văn bản luật pháp liên quan đến chủ quyền trên biển của từng quốc gia cũng như
quốc tế, các diễn giả nhắc đến đường lưỡi bò hay 9-đoạn mà Trung Quốc đưa ra
cùng những đường phân định của các nước tranh chấp mà có chỗ chồng đè lên nhau
đến 6 lớp. Như thế để thấy sự phức tạp của vấn đề và cách giải quyết.
Theo giáo sư Emmerson hiện nay vùng quần đảo Trường Sa với
250 đảo, bãi đá, cát ngầm thì Việt Nam kiểm soát nhiều nhất với 29, Trung Quốc
8, Philippines 8, Malaysia 5, Brunei 2 và Đài Loan 1. Từ 2002 đến nay có tất cả
17 lần xung đột, trong đó có Trung Quốc can dự 12 lần, Philippines 12, Việt Nam
8, Malaysia 1 và Đài Loan 1.
Ông không tin là
chiến tranh sẽ xảy ra, nhưng giải quyết những tranh chấp kéo dài này ra sao thì
chưa có câu trả lời. Giáo sư dẫn chứng việc lãnh đạo Trung Quốc từ trước đến
nay không muốn giải quyết theo luật pháp quốc tế và tiên đoán “Quy tắc ứng xử
trong vùng Biển Hoa Nam sẽ không được ký vào cuối năm nay.”
Giáo sư Emmerson
có một nhận định đáng chú ý về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Công ty khai thác
bô-xít ở Tây nguyên không phải của nhà nước Trung Quốc mà là một công ty độc
lập. Nhưng vì ông Dũng cho phép vào khai thác nên từng bị mang tiếng là phe
thân Trung Quốc.”
Trong phần thảo luận, vấn đề chủ
nghĩa yêu nước và tiến trình dân chủ được nêu lên.
Giáo sư Lowell Dittmer của Đại học Berkeley cho rằng việc
biểu tình bài Nhật, đốt xe hay bẻ cờ từ xe của Đại sứ Nhật không phải là tự
phát mà có chỉ đạo vì thế cho thấy những cuộc biểu tình bài ngoại không thể đưa
đến những thay đổi dân chủ ở Trung Quốc.
Với những động
thái của Hoa Kỳ trong hai năm qua, tuy có xoay qua châu Á nhiều hơn nhưng khả
năng can thiệp quân sự khó xảy ra vì “chính sách của Mỹ là điều chỉnh, phù hợp
và thích nghi – adjust, adapt and accommodate”. Đó là nhận định của giáo sư
Lin.
Còn giáo sư David Rosenberg đề nghị cách giải quyết việc khai
thác tài nguyên trong Biển Hoa Nam theo kế hoạch quản lý chung – Joint
Resource Management – như đã có ở Biển Bắc Hải hay vùng eo biển Malacca. Kế
hoạch này cần sự hợp tác của nhiều nước và các tổ chức quốc tế, NGOs để các
quốc gia liên quan vừa chia nhau tài nguyên và tài nguyên cũng được bảo vệ.
Tác giả hiện dạy
đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do sống tại vùng Vịnh San Francisco. Bài
viết phản ánh cách nhìn của riêng ông.
----------------------------------------------------------
Mạnh
Thắng -
QĐND
QĐND
- Thứ Tư, 12/09/2012, 13:39 (GMT+7)
QĐND Online – Sáng
12-9, tại TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, Viện Hải dương học (Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam) tổ chức Hội nghị quốc tế Biển Đông năm 2012 về 90 năm hoạt
động Hải dương học trên vùng biển Việt Nam và lân cận.
Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam; đại biểu UBND tỉnh Khánh Hòa cùng gần 200 nhà nghiên
cứu về hải dương học trong nước và quốc tế đến từ các tổ chức khoa học biển của
các nước thuộc Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc.
Đây là Hội nghị quốc tế nghiên cứu về biển đầu
tiên mà Viện Hải dương học tổ chức. Trước đó, vào các năm 2002 và 2007, Viện
Hải dương học đã tổ chức Hội nghị Khoa học Biển Đông lần thứ nhất và lần thứ
hai, nhưng chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước.
Hội nghị là dịp để định hướng các hoạt động nghiên
cứu biển trong tương lai, là cơ hội để các nhà khoa học về biển trong nước,
quốc tế trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin nhiều hơn; giúp các Nhà nước
hoạch định chủ trương, chính sách quản lý, khai thác, phát triển biển một cách
lâu dài và bền vững.
Sẽ có 152 tham luận khoa học về biển được các nhà
nghiên cứu của các tổ chức trong nước và quốc tế trình bày trong Hội nghị, dưới
8 chủ đề chính, là: Đa dạng sinh học và bảo tồn biển; Sinh học biển và nuôi
trồng thủy sản; Các quá trình hải dương học và công nghệ biển; Hóa sinh và các
hợp chất tự nhiên biển; Địa chất hóa học biển; tai biến thiên nhiên và biến đổi
khí hậu; sinh học và sinh thái tảo độc hại và Quản lý biển.
Hội nghị sẽ kết thúc vào trưa ngày 14-9.
Tin, ảnh: Mạnh Thắng
No comments:
Post a Comment