Saturday, 9 June 2012

TÌNH TRẠNG ĐỒNG BÀO XIN TỊ NẠN Ở THÁI LAN (TS Nguyễn Đình Thắng)





Ts. Nguyễn Đình Thắng
Tuesday, June 05 @ 21:17:16 EDT

Trong thời gian gần đây, nhờ có người đến Thái Lan gặp gỡ một số đồng bào lánh nạn rồi viết về tình cảnh của họ nên tạo được sự chú ý của nhiều người Việt ở hải ngoại. Điển hình là Bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh từ Pháp và Bà Phạm Tuyết Mai từ Houston đã có những bài viết về thảm trạng của những người Việt đang sống chui nhủi ở Thái Lan. Dưới đây là thông tin tóm lược về số đồng bào tị nạn này cũng như cách thức để giúp đỡ và giải cứu họ.

Họ là những ai?

Trong hai năm qua, nhiều người ở hải ngoại nghe đến nhóm người từ Giáo Xứ Cồn Dầu trốn thoát đến Thái Lan lánh nạn; thực ra họ chỉ chưa đầy 10% của tổng số người Việt đang lánh nạn ở Thái Lan. Theo ước lượng của BPSOS, hiện có gần 900 đồng bào đang lánh nạn ở Thái Lan và một ít ở Mã Lai. Họ đều là những người chạy thoát khỏi Việt Nam trong vòng 5 năm qua. Phần lớn họ là nạn nhân của cuộc đàn áp bắt đầu tháng 3 năm 2007 và tiếp diễn ở Việt Nam. Họ gồm đủ mọi thành phần: tôn giáo, chính trị, bloggers, dân tộc thiểu số, dân oan, nạn nhân buôn người, các người đấu tranh dân chủ, các người biểu tình chống Trung Quốc, v.v. Con số này ngày càng gia tăng vì cuộc đàn áp đang lan rộng ở Việt Nam.

Quy chế của họ ở Thái Lan?

Tất cả những người này đều đang sống bất hợp pháp ở Thái Lan, và luôn phập phồng lo sợ bị trả về cho chế độ mà họ đã trốn thoát.
Theo luật quốc tế, mọi người xin xin tị nạn phải chứng minh tư cách tị nạn của mình với Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, hoặc với chính quyền của quốc gia nơi đang lánh nạn. Trường hợp thứ hai này xẩy ra khi quốc gia ấy đã ký Công Ước 1951 về Tị Nạn (hoặc Hiệp Định Thư 1967 bổ túc Công Ước này). Ở Đông Nam Á chỉ có hai quốc gia đã ký các văn kiện này: Cambốt và Phi Luật Tân.

Đa số người Việt trong những năm 1975-1988 không phải qua thể thức chứng minh tư cách tị nạn này vì, trước cảnh hàng chục vạn người Việt vượt biển sau khi nước mất nhà tan, thế giới tự do động lòng trắc ẩn và cho chúng ta ngoại lệ là được hưởng quyền tị nạn đương nhiên. Chỉ trừ một số nhỏ có tiền án, hoặc là cựu cán binh cộng sản, người Việt nào vượt biên thành công thì được nhập trại để chờ định cư ở quốc gia thứ ba. Chính sách đặc miễn này có thể hiểu nôm na là “đương nhiên là tị nạn cho đến khi bị chứng minh ngược lại”. Chính sách này chấm dứt cuối năm 1988 ở Hồng Kông và đầu năm 1989 ở tất cả các quốc gia khác trong vùng. Từ đó chính sách chung của quốc tế bắt đầu áp dụng cho người Việt: “Không là tị nạn cho đến khi chứng minh được rằng mình là người tị nạn theo tiêu chuẩn của LHQ”. Vì không nắm được thể thức của LHQ, rất nhiều đồng bào thuyền nhân đã bị hàm oan và năm 1996 đã bị hồi hương.

Tình trạng của các đồng bào mới đến Thái Lan lánh nạn cũng vậy. Nếu không được những luật sư kinh nghiệm can thiệp, họ rất ít triển vọng được xét là người ti nạn, bất chấp là đã có thành tích bị đàn áp, tù đày ở Việt Nam.

Những ai được xét là tị nạn thì Cao Uỷ Tị Nạn LHQ can thiệp để chính phủ Thái Lan cho phép lên đường định cư nếu được một quốc gia thứ ba nhận định cư, với điều kiện đóng tiền phạt và phải bị giam một tuần vì lý do nhập cư bất hợp pháp.

Những ai không được xét là tị nạn thì chỉ có con đường hồi hương. Vì không thể hồi hương, họ sống lẩn tránh để không bị phát hiện và bị bắt bởi cảnh sát Thái Lan.

Đời sống của họ ở Thái Lan?

Ngày nay không còn trại tị nạn nữa. Người Việt tị nạn phải sống lẩn lút giữa người dân Thái. Họ có thể bị cảnh sát bắt bất cứ lúc nào. Họ phải tự túc sống bằng cách đi làm lén lút những công việc tay chân; trẻ em thì thất học.

Nhắc lại, chính quyền Thái Lan không ký các văn kiện LHQ kể trên, do đó họ không công nhận bất kỳ ai là tị nạn. Nói cách khác, tất cả mọi người đến Thái Lan lánh nạn đều bị xem là di dân bất hợp pháp, kể cả những ai được LHQ thừa nhận tư cách tị nạn (chỉ riêng người tị nạn Miến Điện được hưởng ngoại lệ, nếu như cư ngụ trong các trại tị nạn sát biên giới Miến).

Đây không phải là điều gì mới mẻ. Ngày xưa thuyền nhân hay bộ nhân đến Thái Lan cũng vậy: đều bị xem là di dân bất hợp pháp. Tuy nhiên, lúc ấy LHQ mướn đất Thái để lập trại tị nạn. Sống quanh quẩn trong trại thì được sự bảo vệ của LHQ, còn bước ra khỏi trại thì bị lính hay cảnh sát Thái bắt ngay. Bây giờ không có trại cho người Việt tị nạn, do đó họ lúc nào cũng bị hiểm nguy rình chờ. Không ít người Việt tị nạn đã bị bắt và bị giam nhiều năm trong trại giam của Sở Di Trú Thái Lan, không có ngày ra trừ khi chấp nhận hồi hương.

Làm sao để giúp họ?

Người Việt tị nạn ở Thái Lan có hai nhu cầu cấp bách: đời sống và quy chế tị nạn. Nhu cầu thứ nhất thì họ còn chạy vạy, bươn chải được. Nhu cầu thứ hai thì họ bó tay. Nếu không có quy chế tị nạn thì họ chỉ có hai chọn lựa: mãi mãi trốn tránh ở Thái Lan hay hồi hương.

Vì vậy BPSOS đặt việc bảo vệ pháp lý cho đồng bào làm ưu tiên hàng đầu. Từ năm 2007 BPSOS đã cử người đến Thái Lan 4, 5 lần mỗi năm để giúp đồng bào lập hồ sơ xin quy chế tị nạn. Cô Vũ Phương-Anh, nạn nhân buôn người ở Jordan, nằm trong trường hợp này. Cô đến lánh nạn ở Thái Lan vào tháng 3, 2008.

Trước số lượng người Việt chạy sang Thái Lan lánh nạn ngày càng đông, tháng 4 năm 2010, BPSOS mở Văn Phòng Trợ Giúp Pháp Lý hoạt động thường trực ở Bangkok. Nhóm người lánh nạn từ Cồn Dầu là nhóm đầu tiên nhận được sự giúp đỡ của văn phòng này.

Khởi đầu với một nhân viên, văn phòng này hiện có 3 luật sư (1 Mỹ, 2 Việt), một người phối hợp hồ sơ, và hai tình nguyện viên để yểm trợ cho các luật sư. Hiện nay văn phòng này đã thực hiện hồ sơ cho khoảng 200 đồng bào.

Ngoài văn phòng này, còn có hai tổ chức nữa cũng giúp về pháp lý: Tổ chức JRS và tổ chức Asylum Access. Mỗi tổ chức cũng chỉ có 1 hoặc 2 luật sư. Thỉnh thoảng, khi số hồ sơ lên cao, BPSOS có chuyển cho họ một ít để phụ giúp. Điều trở ngại là các luật sư này cũng rất bận và không biết tiếng Việt.

BPSOS chủ trương không gây quỹ để trợ giúp về đời sống, vì nhiều lý do. Thứ nhất, sự eo hẹp về tài chánh đòi hỏi chúng tôi phải tập trung vào ưu tiên hàng đầu là trợ giúp về pháp lý để bảo vệ tư cách tị nạn của đồng bào. Thứ hai, việc phân phối tài chánh, phẩm vật rất nhiêu khê, tốn thời giờ và dễ tạo nên mâu thuẫn, bất hoà; các luật sư và những người phụ tá không có thì giờ để thực hiện công tác này. Thay vào đó, chúng tôi móc nối từng trường hợp tị nạn với các nhà hảo tâm hay các tổ chức từ thiện để họ giúp đỡ trực tiếp nếu muốn. Chỉ có một biệt lệ là trong thời gian Bangkok bị lụt, chúng tôi đứng ra gây quỹ cứu đói cho đồng bào tị nạn vì họ mất kế sinh nhai, lại không thể đi ra khỏi căn phòng nơi mình ẩn náu để tìm kiếm thức ăn hay thuốc men.

Cách nào để tiếp tay?

Ngân sách để duy trì Văn Phòng Trợ Giúp Pháp Lý hiện nay là $162,000 mỗi năm. Vị trưởng văn phòng này là nữ Luật Sư An-Phong hiện đang đi vận động sự yểm trợ tài chánh của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ và Canada cũng như ở hải ngoại nói chung. Tuần qua Ls. An-Phong đến Dallas, San Jose và Orange County. Tuần tới Ls. An-Phong sẽ đi Toronto, Ottawa và Montréal. Sau đó nữ luật sư này sẽ đến Seattle và Tacoma.

Quý vị có lòng yểm trở cho Văn Phòng Trợ Giúp Pháp Lý ở Thái Lan, xin gửi ngân phiếu hay money order về cho:

BPSOS/RCS
PO Box 8065
Falls Church, VA 22041 USA

Chúng tôi vô cùng tri ân. Mọi đóng góp đều được miễn trừ thuế.






No comments:

Post a Comment

View My Stats