Vũ Thành
Công - Nguyễn Thế Phương (Thanh Niên
Online)
05/06/2012 3:00
Sự chống đối quyết liệt từ phe bảo
thủ khiến Washington vẫn chưa thể tham gia Công ước LHQ về luật Biển.
Ngày 23.5, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện
Mỹ khởi động phiên điều trần mới nhất về vấn đề liệu nước này có nên tham gia
Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS) 1982. Vốn dĩ, UNCLOS được hình thành để tạo
ra khuôn khổ pháp lý cần thiết cho các quốc gia nhằm ứng xử hiệu quả đối với
nhiều vấn đề liên quan đến biển. Công ước này đồng thời cũng tạo ra rất nhiều
cơ chế phục vụ cho việc giải quyết các tranh chấp và quản lý nguồn tài nguyên
biển. Trong khi giới ngoại giao, quân sự và nhiều công ty lớn của Mỹ thúc giục
quốc hội thông qua UNCLOS thì một số nhóm khác lại phản đối. Cụ thể hơn, lực
lượng bảo thủ, vốn có xu hướng ủng hộ đường lối hoặc là thành viên đảng Cộng
hòa, đã chống đối quyết liệt.
Những người bảo thủ ủng hộ các giá trị
truyền thống, chính phủ gọn nhẹ, mức thuế thấp, giảm thiểu quy tắc ứng xử trong
luật pháp và xã hội, hướng đến tự do kinh doanh. Về đối ngoại, họ ủng hộ việc
mở rộng tầm ảnh hưởng của Mỹ ra toàn cầu, xây dựng một nền quốc phòng mạnh mẽ
với một lực lượng quân sự đông đảo cộng với chính sách đối ngoại cứng rắn. Có
thể nhận ra rằng hầu hết các lập luận chống lại UNCLOS đều dựa trên những nền
tảng tư tưởng như trên. Quan điểm của những người phản đối dựa trên cơ sở của
những lập luận khá vững chắc mà đáng chú ý nhất là niềm tin vào sức mạnh nước
Mỹ, mất tự do hàng hải, ảnh hưởng tới bảo mật quân sự và kinh tế.
Trong hai lần được trình trước quốc hội
vào năm 1994 dưới thời Tổng thống Bill Clinton và năm 2007 dưới thời Tổng thống
George W.Bush, UNCLOS đều bị ngăn chặn bởi những nhân vật bảo thủ có ảnh hưởng
lớn. Vào phiên điều trần ngày 23.5, 2 nhân vật lên tiếng chống đối UNCLOS mạnh
mẽ nhất là 2 thượng nghị sĩ Jim DeMint và James Inhofe cùng thuộc đảng Cộng
hòa. Trong thượng viện Mỹ, đây là 2 nhân vật bảo thủ hàng đầu. Ngoài ra, một số
chính trị gia và học giả khác có cùng quan điểm bảo thủ cũng cực lực phản đối
UNCLOS.
Lý lẽ của phe bảo thủ
Lập luận của phe chống đối hầu hết đều
dựa vào những quy tắc của chủ nghĩa quốc gia bảo thủ. Theo thượng nghị sĩ
DeMint, đại diện phe phản đối, Mỹ đã là một cường quốc biển, hiện diện khắp mọi
nơi trên thế giới và có quyền tự do hàng hải từ lâu đời. Tương tự, trang
Heritage.org dẫn lời học giả Steven Groves thuộc Quỹ Heritage Foundation lập
luận rằng Washington đang sở hữu “lực lượng hải quân tốt nhất mà thế giới từng
chứng kiến”. Vì thế, ông Groves khẳng định Mỹ đủ sức đảm bảo tự do hàng hải
trên các vùng biển mà chẳng bị ràng buộc bởi bất cứ công ước, cơ quan hay tổ
chức nào.
Theo chuyên trang quân sự
Globalfirepower, chỉ tính riêng lực lượng tàu sân bay thì Mỹ có 11 chiếc chạy
bằng năng lượng hạt nhân và độ choán nước đều trên 90.000 tấn. Trong khi đó, 9
nước còn lại sở hữu tàu sân bay trên thế giới chỉ có tổng cộng 11 chiếc và tất
cả đều có độ choán nước dưới 70.000 tấn. Ngoài ra, Mỹ có tổng cộng 2.384 tàu
hải quân các loại và 18.234 máy bay, còn lực lượng hải quân thứ hai thế giới là
Trung Quốc chỉ có 972 tàu hải quân và 5.176 máy bay, chưa kể mức độ hiện đại.
Vì vậy, học giả Groves cho rằng nước Mỹ vẫn duy trì và bảo vệ được những lợi
ích hàng hải từ trước khi UNCLOS ra đời nên Washington chẳng cần tham gia công
ước này. Trang Heritage.org dẫn lời ông khẳng định quyền tự do hàng hải mà Mỹ
có được là nhờ sự kết hợp giữa những nguyên tắc hợp pháp lâu đời và sự hiện
diện liên tục của hải quân.
Thậm chí, phe phản đối còn cho rằng
nước này sẽ tự hạn chế quyền tự do hàng hải nếu tham gia UNCLOS. Theo đó, Mỹ
hiện nay có thể di chuyển đến bất kỳ nơi đâu trên thế giới (trừ vùng nội thủy
của các nước khác) và vẫn có “quyền đi lại không gây hại” ở vùng lãnh hải của
bất cứ quốc gia nào. Thế nhưng, nếu tham gia UNCLOS, Washington sẽ phải xin
phép để được đi qua vùng đặc quyền kinh tế (EZZ) của các nước khác. Đây là việc
mà một siêu cường như Mỹ khó có thể chấp nhận. Ngoài ra, điều này còn dẫn tới
hậu quả Washington bị hạn chế khi duy trì lực lượng răn đe trên biển hay thực
hiện biện pháp ngoại giao “đu đưa bên miệng hố chiến tranh” như từng điều tàu đến
eo biển Hormuz hồi đầu năm 2012.
Hơn thế nữa, bảo mật quân sự của Mỹ
cũng bị ảnh hưởng khi tham gia UNCLOS vì Washington phải chia sẻ thông tin tình
báo, quân sự trên biển với Cơ quan Quản lý lòng biển quốc tế (ISA) nếu được yêu
cầu. Đồng thời, Mỹ cũng sẽ phải thông báo và xin phép ISA khi đi qua các eo
biển quốc tế. Chỉ riêng việc một tổ chức không phải của Mỹ có quyền yêu cầu Mỹ
báo cáo các thông tin hàng hải, quân sự đã là một sự “sỉ nhục”. Xa hơn, việc
ISA có quyền cho phép và thu thuế với các doanh nghiệp Mỹ thực hiện những hoạt
động trên biển cũng sẽ là điều không thể chấp nhận.
Vì thế, lập luận xuyên suốt của phe bảo
thủ là nước mạnh thì không cần luật. Và theo họ, Mỹ thể hiện đầy đủ tiêu chí là
nước mạnh nhất toàn cầu. (Còn tiếp)
Vũ Thành Công - Nguyễn Thế Phương
*
*
Nguyễn Chính Tâm
(Thanh Niên Online)
06/06/2012 3:10
Dù thiên thời và địa lợi đã có, nhưng
Mỹ cần phải đạt được “nhân hòa” trong nội bộ nước này thì mới có thể tham gia
UNCLOS.
Sau hai lần bị phủ quyết trước quốc hội
vào năm 1994 và 1997, việc gia nhập Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS) 1982
chưa bao giờ được nhiều thành phần tại Mỹ ủng hộ như hiện nay. Ngoại trưởng
Hillary Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta cùng một số công ty lớn tại
Mỹ đều đã lên tiếng hậu thuẫn. Đặc biệt, các công ty năng lượng Mỹ nhiệt tình
ủng hộ Washington gia nhập UNCLOS. Tuy nhiên, nếu đặt góc nhìn về biển Đông,
việc vượt sự ngăn cản của phe bảo thủ cần đảm bảo các yếu tố thiên thời, địa
lợi và nhân hòa.
Sợ sức mạnh
Xét tổng thể, bất cứ nước nào liên can
đến lợi ích trên biển Đông - dù trực tiếp hay gián tiếp - đều xoay vòng giữa
hai xu thế: sức mạnh và từ chối sức mạnh. Thông thường, các cường quốc có xu
hướng ỷ vào sức mạnh. Ngược lại, các nước nhỏ ưu tiên viện dẫn nguyên tắc pháp
lý quốc tế. Bất đối xứng về sức mạnh dẫn đến bất đối xứng về hành vi. Tuy vậy,
những gì diễn ra trên biển Đông lại không hoàn toàn tuân theo nguyên tắc trên.
Trỗi dậy nhưng chưa phải vô địch, Trung Quốc đã trải qua nhiều năm theo đuổi
chính sách “ẩn mình chờ thời” do nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đề ra.
Trong khi đó, mặc dù là cường quốc mạnh
nhất nhì thế giới nhưng hiện tại đã qua thời Chiến tranh lạnh nên Mỹ cũng lựa
chọn chính sách duy trì. Nhất là khi quyền lợi trực tiếp của Washington tại
biển Đông không tập trung vào tranh chấp chủ quyền. Washington san sẻ quyền lợi
tự do hàng hải, giữ trách nhiệm bảo vệ đồng minh nhằm tái khẳng định “trật tự
Mỹ” tại châu Á - Thái Bình Dương, vốn được hình thành sau Thế chiến 2. Sự dính
líu của Mỹ vào biển Đông vừa là định mệnh mà cũng vừa là lựa chọn bắt buộc.
Như vậy, cả hai đều mạnh nhưng cũng đều
sợ sức mạnh. Trung Quốc có thời kỳ “trỗi dậy hòa bình” ngoạn mục trong hơn 1
thập niên qua kể từ năm 1997, nước này chấp nhận giới hạn sức mạnh và theo đuổi
con đường “thể chế”. Biển Đông có thời gian tạm ổn định khi vòng đàm phán về Bộ
quy tắc ứng xử (COC) bắt đầu và kết thúc bằng Tuyên bố về cách ứng xử giữa các
bên ở biển Đông (DOC) năm 2002.
Mỹ được công nhận là siêu cường lãnh
đạo, không phải do sự vượt trội về số lượng khí tài trên biển mà còn nhờ vào nỗ
lực xây dựng trật tự thế giới theo một khung hành động theo pháp lý. Thế nhưng,
trong cuộc chiến Iraq, Mỹ đơn phương từ chối các thể chế do chính nước này đề
ra. Vì vậy, phong trào phản kháng Mỹ dưới trào Tổng thống George W.Bush trở nên
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tương tự, Trung Quốc bị khủng hoảng về vị trí và hình
ảnh “phát triển hài hòa” vì Bắc Kinh có những động thái hung hãn trên biển
Đông. Theo đó, Mỹ lẫn Trung Quốc đều gặp chung một tình trạng: sự tràn thừa xu
hướng sức mạnh.
Kiềng 3 chân
Sợ sức mạnh thì “thể chế” là giải pháp.
Các cường quốc sẽ đạt được 3 điểm có lợi khi tự giới hạn hành động vào khuôn
phép. Một là vẫn giữ được vị trí ưu tiên trong thể chế giúp đảm bảo quyền lợi
tối thiểu trong trường hợp sức mạnh bị suy giảm. Hai là việc lạm dụng sức mạnh
kéo theo nhiều tốn kém. Cuối cùng, đó là nguyên tắc bất di bất dịch bao đời
nay: “Danh có chính thì ngôn mới thuận”. Luật và thể chế giúp các nước lớn theo
đuổi quyền lợi của mình bằng con đường chính danh thông qua những cam kết đồng
thuận giữa các bên.
Đối với Washington, thời của “thể chế”
trên biển Đông bắt đầu bằng việc định nghĩa lại lợi ích của Mỹ trên đại dương,
cụ thể nhất qua việc phê chuẩn UNCLOS. Trong bối cảnh cắt giảm chi phí quân sự
và tái bố trí lực lượng, công ước trên sẽ giúp Mỹ tạo nền tảng pháp lý vững
chắc để thực thi chính sách “chuyển dịch trọng tâm chiến lược” sang châu Á -
Thái Bình Dương. Hiện tại, sự vượt trội về lực lượng quân sự và đồng minh của
Mỹ tại khu vực này đều có xu hướng thay đổi khi Trung Quốc trỗi dậy. Vì thế,
“liên minh pháp lý” đóng vai trò bàn đạp thứ ba của Mỹ tại châu Á - Thái Bình
Dương. Điều này giúp Mỹ tham gia trực tiếp hơn tại biển Đông và không bị định
kiến lạm dụng sức mạnh. Nói như ông Panetta thì: “Mạnh vì chơi theo luật chứ
không phải chống lại luật”. Nhờ đó, Mỹ có thể hiện diện và khẳng định vai trò
một cách chính danh hơn, khác với hình ảnh một cường quốc đang trỗi dậy nhưng
thiếu sự công nhận từ cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến
việc Mỹ tham gia UNCLOS lại phụ thuộc vào nội bộ nước này. Đặc biệt, đây là
giai đoạn khá nhạy cảm khi cuộc bầu cử tổng thống diễn ra vào cuối năm nay.
Hiện tại, những xu hướng chính trị cực tả hay cực hữu không thể nào vận động
được hết đa số nên các ứng viên tổng thống Mỹ sẽ tìm cách dung hòa để mở rộng
lực lượng ủng hộ. Giữa bối cảnh như thế, các đề tài gây tranh cãi như UNCLOS
nhiều khả năng bị đem ra “đổi chác” trong quốc nội. Theo đó, rất khó để đoán
định việc Mỹ có tham gia UNCLOS trong lần này hay không. Kết quả còn chờ vào
yếu tố nhân hòa dù thiên thời và địa lợi đã có đủ.
Nguyễn Chính Tâm
No comments:
Post a Comment