PSN - 21.04.2012
Chiến tranh là một đề tài lớn của văn chương nhân
loại. Với quốc gia Hoa Kỳ, một cuộc chiến để lại nhiều hậu quả nhất về các
phương diện như chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa, kinh tế, ngoại giao, ...
là chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ bắt đầu chính thức can thiệp vào Việt Nam từ
năm 1954 trở đi từ khi hiệp ước Genève được ký kết chia đôi lãnh thổ Việt Nam
thành hai miền Nam Bắc với ranh giới là vĩ tuyến 17. Chấm dứt vào cuối tháng Tư
năm 1975, cuộc chiến ấy đã để lại vết hằn lịch sử rất sâu cho quốc gia Hoa Kỳ
và hậu quả đã kéo dài đến cả mấy thập niên sau. Ảnh hưởng chính trị, kinh tế,
quân sự, ngoại giao, ... chúng ta đã thấy rõ và trong văn học cũng phản ảnh rất
nhiều biểu tượng. Có tác phẩm viết trong lúc chiến tranh nhưng cũng có nhiều
tác phẩm hoàn tất vào thời kỳ hậu chiến tranh. Có tác gỉa cổ động chiến tranh
nhưng cũng có tác giả phản chiến. Tác giả có thể là ký giả của các cơ quan
truyền thông đã đến và làm việc ở Việt Nam và quen thuộc với thành phố Sài Gòn.
Nhưng cũng có những tác giả là cựu GI, đã chiến đấu ở các chiến trường đẫm máu
nhất nổi tiếng cả thế giới. Có những người viết để tìm ở đó những dịp may để
thành nổi tiếng. Một bức hình tình cờ, một ghi chép độc đáo, một cuộc phỏng vấn
kịp thời kịp lúc, họ có thể nắm chặt được dịp may thành nổi tiếng. Bức hình chụp
cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan xử tử đặc công Cộng sản Nguyễn Văn Lém của nhiếp
ảnh gia Eddie Adams của Associated Press. Hay bức hình chụp cô bé trần truồng
Phan Thị Kim Phúc đang bị bom cháy của Nick Ut cũng Associated Press. Hoặc
những cuộc phỏng vấn các nhà lãnh đạo của Oriana Fallaci….
Về thi ca, tiểu thuyết, biên khảo, thư mục về chiến
tranh Việt Nam dài dằng đặc cả mấy chục trang và tìm kiếm để đọc những cuốn
tiêu biểu cũng là một việc khó khăn. Với tôi, tôi chọn những tác gỉa và tác
phẩm được đề cập nhiều bởi các phê bình gia để đọc và để tìm hiểu phần nào
chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng thế nào trong đời sống người dân Hoa Kỳ cũng
như với người Việt Nam. Đọc những tác phẩm viết đề tài khá rộng lớn này, tôi
chỉ muốn tự trả lời mình câu hỏi thế nào là tác giả phản chiến và tác phẩm ấy
có nội dung ra sao để được mệnh danh là phản chiến. Bởi vì, tôi cũng nghe loáng
thoáng tác giả này phản chiến tác giả kia chống Cộng quyết liệt, mà chưa có gì
cụ thể hiện thưc để hình dung cả.
Một phong trào phản đối chiến tranh hình thành năm
1965 với hai người chủ xướng là hai nhà thơ Robert Bly và David Ray. Cùng với
những người nổi tiếng được coi là thành viên này như Galway Kinnell, W. S.
Merwin, Allen Ginsberg, Andrienne Rich, Grace Paley, Douglas Kent hall, Robert
Lovell… Năm 1967, Robert Bly đoạt giải National Book Award vời thi tập “The
Light Around the Body” nhưng đã dùng tiền thưởng để góp vào quỹ cho các cuộc
vận động phản chiến. David Ray, người cùng với Bly thành lập American Writers
Against The Viêt Nam War và cũng thành lập A Poetry Reading Against The Việt
Nam War là một tuyển tập gồm các bài thơ phản chiến và thường được đọc tại
khuôn viên các trường đại học để kích động sinh viên và trí thức biểu tình phản
đối sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam. David Ray thường làm các bài
thơ ngắn có khi chỉ ba hoặc bốn dòng và dài nhất là 30 dòng. Ông đã viết những
bài thơ phản chiến trong “Dragging the Main” và “Gathering Firewood”, đánh dấu
một thời kỳ sôi động của lịch sử và cũng của riêng ông.
”Chickenhawk”.
Có những hồi ký của những cựu chiến binh Hoa kỳ
viết về những ngày tháng chiến trường của mình. Như Robert Mason và hồi ký nổi
tiếng ”Chickenhawk”. Mason là một phi công trực thăng của Đệ Nhất Sư Đoàn Kỵ
Binh Không Vận Hoa Kỳ và đã có 6 tháng bay loại slick UH1B hành quân ở Việt
Nam, đặc biệt là đã tham dự trận đánh ở thung lũng La Drang. Trong trận này,
Mason đã bao vùng nhiều giờ trong ngày chở theo một đại tá và hai đại úy quan
sát và chỉ huy quân bộ chiến ở dưới đất. Mason cũng đã tình nguyện kéo dài phi
vụ, đáp xuống trận địa ban đêm để di tản thương binh. Mason cũng đã chở đạn
pháo binh, cũng như đồ tiếp liệu cho mặt trận và cũng thi hành các phi vụ đổ
quân của tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 7, Sư đoàn 1 Không Kỵ. Tổng kết trong chiến trận
Mason đã di chuyển đến bệnh viện dã chiến của sư đoàn hơn cả trăm thương binh.
Năm 1966, Mason cũng tham dự bay hành quân với Sư Đoàn Nhảy Dù 101 trong
Operatiom Hawthorne ở Dakto. Mason nổi tiếng là một phi công may mắn vì đã
thoát hiểm nhiều lần. Nhưng sau nhiệm kỳ ở Việt Nam, dù với thâm niên bay bổng
và trở thành một huấn luyện viên phi hành nhưng sau cũng bị bịnh tâm thần vì
ảnh hưởng chiến trận ở Việt Nam.
Năm 1979, Robert Mason viết “Chickenhawk” sau một
chuyến trở về Việt Nam du lịch. Mason kể lại những câu chuyện với một người phi
công đồng ngũ và cũng là co-pilot của ông thời ông bay ở Việt Nam tên Jerry
Towler về những kỷ niệm chiến trường. Năm 1983, Mason xuất bản hồi ký này và
được đón nhận nồng nhiệt. Mason được mời lên giới thiệu tác phẩm của mình trên
The Today Show và sách của ông trở thành best seller và in hàng trăm ngàn bản
bìa cứng. Năm 1981 ông bị tù đến tháng 5 năm 1985 vì tội bán bạch phiến từ
Colombia. Sau ông viết tiếp và xuất bản hai tiểu thuyết, Weapon năm 1989 và
Solo năm 1992, như là hồi ký thứ hai tiếp theo Chickenhawk Back in the World.
Hãng phim Columbia đã chuyển thành phim với tên là “Solo” nhưng nội dung là của
tác phẩm đầu tiên Chickenhawk…
Những kinh nghiệm đời bay bổng, những chi tiết
chiến trường hào hùng, những sự chịu đựng không ngờ của người phi công cũng như
cường độ ác liệt của trận chiến mà Robert Mason tham dự đã là những hấp dẫn cho
người đọc. Nhưng bên cạnh con người hùng ấy, vẫn có con người thật và Robert
Mason đã bị bệnh tâm thần, nghiện ma túy sau khi thi hành nhiệm vụ quân sự ở
Việt Nam. Một khía cạnh nhân bản để nhìn vào một cuộc chiến ác liệt mà những
người lính phải trải qua. Và là một phản diện của chiến tranh. Với một cựu
chiến binh đã thi hành hàng ngàn phi vụ chiến đấu, trong tiểu thuyết của ông,
đã mô tả được một con người đã phải chịu đựng những nỗi lo sợ khi bay gần cái
chết, sự câm lặng đến vô hồn trở thành nỗi ám ảnh trong cuộc sống về sau, cũng
như tình đồng đội ăn sâu vào tâm não với những cái chết bất ngờ của đồng đội
trong cuộc chiến và đã tạo thành cảm giác cực độ để chia sẻ từ độc giả. Hàng
triệu ấn bản của Chickenhawk đã được bán hết trong lần xuất bản đầu tiên năm
1983 khi mà vết thương của chiến tranh Việt Nam vẫn còn nhức nhối trong công
luận Hoa Kỳ…
Một nhà văn khác, Karl Marlantes tác giả của
Matterhorn đã được nhật báo NewYork Times gọi là một tiểu thuyết sâu sắc và
nhiều chất tàn pha nhất của đề tài chiến tranh Việt Nam. Tiểu thuyết này lấy
căn bản từ những kinh nghiệm bản thân trong chiến tranh khi ông là một trung úy
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và đã nhận được nhiều tưởng thưởng và huy chương từ
những chiến công của mình.
”Matterhorn”.
Mùa hè năm 1970, khi Karl Marlantes được giải ngũ
sau mười ba tháng phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ với những
chiến tích rực rỡ. Ông đi một vòng chung quanh điện Capitol thì gặp môt nhóm
trẻ tuổi chống chiến tranh đang biểu tình hô to những khẩu hiệu phản chiến, gọi
những người lính là những kẻ sát nhân giết hại con trẻ và giương cao lá cờ của
Cộng sản Bắc Việt. Karl thật buồn và cảm thấy bị tổn thương. Karl đã có lần tâm
sự với một người bạn. ”Tôi nghĩ tôi không có một suy nghĩ nào về việc tôi
làm…Vâng tôi đã từng nổ súng bắn họ. Sáu tuần trước đây, tôi đã giết một người
lính du kích Bắc Việt trên chiến trường”. Trong cái xúc cảm chợt đến, Marlantes
tự tìm thấy cho mình lý do cầm súng. Đó là một thiên tự truyện dài của cuộc đời
ông. Ba mươi năm sau ông mới viết ”Matterhorn”. Nhan đề tác phẩm là tên của một
căn cứ hỏa lực trên núi cao khống chế vùng Ba Biên Giới : Lào, Nam Việt Nam và
Bắc Việt Nam. Không giống như đỉnh 937 hoặc đồi thịt bằm Hamberger Hill,
Matterhorn là một địa điểm chết của những chàng lính trẻ Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ của đại đội Bravo, một đơn vị có nhiệm vụ án ngữ đường chuyển vận của
quân Cộng sản. Đại đội trưởng là trung úy Waino Mellas, một người có nhiều điểm
giống với Marlantes: cùng tốt nghiệp từ đại học Ivy league và quê quán ở một
vùng quê mùa tiểu bang Oregon và dính chặt vào những giá trị của thời niên
thiếu hơn là sự thông minh và có tinh thần cấp tiến của đồng môn học trường
Princeton. Mellas tình nguyện vào TQLC, và thăng cấp chỉ huy một tiểu đội ở một
góc núi tây bắc Nam Việt Nam vào mùa mưa năm 1969. Giống như câu phát biểu của
Marlantes ”tất cả các trung úy của lịch sử đều giống nhau” Mellas nói ”Tôi đúng
là một đứa trẻ da trắng từ Oregon đã chỉ huy một lứa tuổi trẻ từ những ghetto.”
Matterhorn có đầy đủ những dữ kiện làm hấp dẫn
người đọc. Chiến tranh đã có vô vàn những hiện tượng mà người lính phải trực
diên. Không phải chỉ có độc nhất người lính Cộng sản là kẻ thù mà thời tiết,
địa lý, cũng là kẻ thù đáng sợ. Những cơn mưa lầy lội, những mùa giá lạnh, bệnh
tật, không đầy đủ thức ăn nước uống khi ở một vị trí cô lập, tất cả những điều
ấy đã ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của người lính. Thêm vào những sự kèn
cựa giữa đồng đội, sự lừa dối của cấp chỉ huy cao cấp. Nhưng khi họ ở trong
tình trạng nguy hiểm thì lại cố gắng bên cạnh nhau để chống trả lại một đối thủ
đến cả trung đoàn. Kinh nghiệm trân mạc của những hoàn cảnh thập tử nhất sinh
ấy đã thành nét nổi bật của Matterhorn.
Trong hơn ba mươi năm Marlantes khởi viết từ 1975
với lý do còn phải làm việc để nuôi một gia đình năm con không có đủ thời giờ
để hoàn tất. Nhưng đó cũng là một phương cách để làm nguôi ngoai đi nỗi đau
chiến tranh. Nhưng cũng có thể từ tác phẩm này sẽ gây cho người khác trong
tương lai những thương tâm mới và tác gỉa đã giải thích rằng muốn độc giả tiếp
cận với những phương diện bề mặt khác của cuộc sống để những nỗi đau không hiểu
biết nhau không còn nữa qua sự tiếp cận.
“The Things They Carried”.
Một tuyển tập truyện ngắn của Tim O’Brien cũng được
giới phê bình nhắc nhở. Đó là tác phẩm “The Things They Carried”. Mặc dù được
giới thiệu như là tiểu thuyết nhưng những truyện ngắn này là những mảnh đời
sống thực của tác giả trong thời chiến tranh. Mặc dù một số chi tiết căn bản là
hư cấu nhưng trong truyện đã biểu lộ được chân dung người lính giống như của
hồi ký của Tim O’Brien như “If I Die in a Combat Zone“ hoặc ”Box me Up and Ship
me Home”.
The Things They Carried gồm hai mươi mốt truyện
ngắn viết trong nhiều thời kỳ khác nhau nhưng đều có chung một mục đích là phác
họa chân dung đích thực của một người lính Hoa Kỳ tham dự chiến tranh ở Việt
Nam... Tim O’Brien đóng vai người kể truyện và dẫn đắt để phác họa từng vóc
dáng nhân vật của tiểu đội lính là đồng đội của anh. Tim cho rằng có nhiều sự
kiện không thể giải thích được rõ ràng tất cả. Thí dụ như cái chết của Kiowa dù
anh cố tình tìm ra để khám phá nguyên ủy nhưng không thể nào tìm ra được lầm
lỗi của mình. Nhân vật trong truyện chỉ là người mà Tim mượn tên và nhiều khi
nhân vật xưng Tôi và Tim là hai người khác nhau.
The Things They Carried là những hồi ức được kể lại
của những kinh nghiệm chiến đấu của trung úy bộ binh Hoa Kỳ Jimmy Cross và tiếp
theo là một người lính cùng trong tiểu đội chết ngày 16 tháng Tư, Ted Lavender.
Và người thứ ba trong câu chuyện mô tả những chân dung cá nhân của từng người
lính trong tiểu đội.
Trung úy Jimmy Cross, nhân vật chính và cũng là
người chỉ huy tiểu đội, đã mang theo một lá thư ông nhận được từ Martha, một nữ
sinh viên năm thứ hai ban Anh văn của St Sebastian College tiểu bang New
Jersey. Ông đã dùng lá thư, những tấm hình và cả một viên đá nhỏ kỷ niệm mà cô
này gửi đến như một phương cách để liên lạc với một thế giới dường như xa cách
lắm ở ngoài Việt Nam. Từ những cơn mơ mộng và những ý nghĩ lãng mạn ông đã
thoảng ra một câu hỏi về nhiệm vụ của một người lính và cuộc sống của họ.
Tim O’Brien muốn nêu lên những vấn đề mà trong thâm
tâm ông ta dằn vặt và làm độc giả hụt hẫng : Có phải chiến tranh là một thế
giới mà ở nơi chốn ấy quá khứ đã bám chặt lấy hiện tại, nơi mà súng đạn xem ra
nhiều uy lực hơn con người, nơi mà những thân xác đàn bà hấp dẫn những người
lính, nơi những thân thể người lính đã bị hỏa thiêu nhưng còn hiện hữu, nơi
những điều ma quỷ cố sức giết hại con người bằng nỗ lực thiêu hủy nhân tính và
nơi ngoại trừ trong trí tưởng tượng là sự bất khả của ma túy.
Tim O’Brien phục vụ tại Việt Nam từ năm 1968 đến
năm 1970. Đơn vị pháo binh, tiểu đội 3, đại đội A, tiểu đoàn 15, trung đoàn 46.
Nhiệm kỳ thứ hai O’Brien phục vụ tại sư đoàn America, một sư đoàn có đơn vị đã
gây ra vụ tàn sát thường dân ở Mỹ Lai. Khi đến đóng quân tại một vùng lân cận
Mỹ Lai gọi là Pinkville, O’Brien đã ngạc nhiên vì không hiểu rằng ở đia phương
này trước đây một năm đã xảy ra một biến cố đã là một đề tài cho những người
chống đối chiến tranh. O’Brien cũng muốn phân biệt giữa hư cấu của tiểu thuyết
và thực tại... Trong truyện ngắn “How to Tell a True War History” đã phân biệt
giữa “story truth” và “happening truth”, giữa thực tại của tiểu thuyết và thực
tại xảy ra. Tim O’Brien đã qua Việt Nam chiến đấu trong khi một số khác chạy
trốn, qua Canada sống hoặc đốt thẻ trưng binh từ chối đi lính. “Tôi sợ sự trốn
chạy. Tôi cũng sợ những suy nghĩ về tôi của những người thân. Tôi sơ tôi sẽ bị
mang tiếng. Tôi sợ bị nhìn ngắm như một thằng hèn. Tôi càng sợ hơn về sự tự
mình khiếp nhược”. Cũng như, O’Brien khi cầm súng bắn vào kẻ thù thì cho rằng
cây súng giết người chứ bản thân O’Brien không can dự vào…
Paco‘s Story
Tiểu thuyết của Larry Heinemann có phong cách của
những cảm nhận trực tiếp về chiến tranh với những mô tả trực diện và chân thực.
Ông mang những kinh nghiệm cá nhân của mình để kể lại và giãi bày trong tiểu
thuyết đầu tay của ông xuất bãn năm 1977 ”Closed Quarters”. Nhưng tiểu thuyết
thứ hai của ông mang nặng cá tính hơn và cũng được đón nhân nhiều phê phán phẩm
bình hơn. Tác phẩm Paco’s Story đoạt giải National Book Award for Fiction năm
1987 và là một bất ngờ cũng như tạo ra nhiều dư luận xôn xao trong văn giới. Có
nhiều người cho rằng tác phẩm tương xứng với giá trị của giải thưởng nhưng cũng
có sự phê phán về cá nhân của Larry Heinemann về ngân phiếu đã được lãnh cũng như
tác phẩm điệu khắc Louise Nevelson không đuợc hoàn trả. Paco‘s Story liên quan
tới những kinh nghiệm chiến trường của những người lính bất hạnh, của những bi
kịch, của những bóng ma của đồng đội với những tiếng vọng đau thương của những
lời kể chuyện thê thiết. Và một điều ngạc nhiên thích thú là những chuyện kể
của bóng ma quá khứ lại là một xử dụng kỹ thuật để mô tả chiến tranh của nhà
văn hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ. Chuyện kể xoay quanh sự đối nghịch tương phản
giữa đạo đức và vô luân, nhân bản và vô nhân. Trong những đối nghịch ấy, người
lính có khi là thủ phạm mà cũng có khi là nạn nhân. Larry Heinemann gia nhập
Lục quân Hoa Kỳ năm 1966 và thi hành quân vụ ở Việt Nam trong nhiệm kỳ hai năm
1967-1968. Ông phục vụ trong Sư Đoàn 25 Bộ Binh Hoa Kỳ đơn vị Thiết Kỵ và tham
gia nhiều cuộc hành quân cùng địa đạo Củ Chi, Dầu Tiếng, Tây Ninh và khu Tam
Giác Sắt vùng phía Bắc Sài Gòn. Trong trang bìa của ấn bản, tác phẩm được giới
thiệu như: ”Giống như Hemingway trong Giã Từ Vũ Khí, Larry Heinemann tạo tin
tưởng cho chúng ta một cách chân thực rằng cuộc chiến này đã được giới hạn từ
góc cạnh quan sát của những cuộc chiến cá nhân riêng rẽ...”
Nội dung là chuyện kể của một người lính sống sót
Paco Sullivan của đại đội Alpha sau cuộc tấn công của Việt Cộng vào căn cứ hỏa
lực Harriette. Mọi người đều bị tử thương chỉ còn duy nhất Paco còn sống với
thương tích trầm trọng sau hai ngày chịu đựng, những vết bỏng phủ đầy giòi bọ
và cơ thể bị nhiễm trùng trầm trọng. Sau khi trở về Hoa Kỳ, Paco trở thnah một
người tàn phế cả về thể xác lẫn tinh thần và luôn luôn sống với những bóng ma
từ quá khứ của những người đồng đội hy sinh trong chiến trận. Tác giả đã dùng
phương cách đối thoại với những hồn ma để nói về chuyện của người lính Paco để
quan sát những góc cạnh cá nhân của anh ta cũng như biểu lộ những cảm xúc về
chiến tranh cũng như những liên hệ sau này của một cưu quân nhân lạc lõng trong
đời sống dân sự. Bắt đầu từ chuyến xe bus của Paco đến thành phố Boone tiểu
bang Texas với cây gậy chống trên tay và một công việc rửa chén được coi như là
một đặc ân ban cho từ hội cựu quân nhân. Chịu đựng những cơn đau giết người,
Paco ở trong một chu kỳ làm việc và giấc ngủ nối tiếp nhau câm lặng và chập
chờn những ác mộng. Có nhiều lớp đối thoại trong tiểu thuyết, từ độc thoại của
Paco đến câu chuyện thứ hai của người cứu thương người đã kiếm tìm được và cứu
sống Paco và người đàn bà trẻ ái nam ái nữ mê say anh. Những mảnh gương đối
chiếu cạnh nhau khiến độc giả cảm thấy đây không phải là chuyện của một chân
dung độc nhất mà có khi là tổng hợp của nhiều người nhiều khuôn vóc. Larry
Heinemann đã tạo cảm giác rằng người kể không phải là chính ông mà có thể là
người em trai cũng đã từng tham chiến ở Việt Nam nhưng về Hoa Kỳ thành cựu quân
nhân và lạc lõng trong xã hội đến nỗi phải tự tử.
Larry mô tả trong tiểu thuyết này nhiều cảnh tượng
chiến tranh có lúc thật vô nhân, và khuôn mặt thật của chiến tranh đã được bôi
đen bằng những chi tiết bạo lực mà tính chất nhân bản hoặc đạo đức đã bị bản
năng cũng như sự kích thích chém giết làm cho thui chột….
Tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam rất nhiều và
phong phú. Một vài quyển tôi đọc ở trên chỉ là một phần nhỏ của thư mục to lớn
ấy. Hy vọng một dịp nào đó tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm được những chân dung của
một thời chiến tranh của cả hai đất nước Việt Nam và Hoa Kỳ. Một điều quặn đau
là vị trí của người lính VNCH quá khiêm nhường và chỉ là phụ thuộc trong con
mắt của những người lính Hoa kỳ tham chiến ở Việt Nam. Trong khi, trên thực tế,
quân lực ấy đã tận lực bảo vệ lãnh thổ và chính nghĩa tự do. Có biết bao người
lính đã hy sinh cho lý tưởng. Nhưng, vì là kẻ thua trận nên bị quên lãng. Thành
ra, đối với những người cầm bút, ước mong sao có những công trình văn học nói
lên sự thực để trả lại công bằng cho lịch sử... .
Nguyễn Mạnh Trinh
.
.
.
No comments:
Post a Comment