Sự thô lậu của “chữ nghĩa cộng sản” so với văn hóa bóng bẩy của
miền Nam xưa
Nguyễn Anh Khiêm -
Saigon Nhỏ
15 tháng 1, 2022
“Ngôn ngữ cộng sản”
đang tàn phá tiếng Việt như thế nào?
Mục mới “Ngôn
Ngữ Của Đảng CS Việt Nam” được tập
hợp thành từ điển trên trang VietStudies của giáo sư Trần Hữu Dũng chắc được độc
giả theo dõi với nhiều thích thú. Từ ngữ ở đó đương nhiên là cũ, tức vẫn thuộc
vốn từ của dân tộc Việt nhưng rõ ràng ngữ nghĩa thì khác nhiều với nghĩa truyền
thống chúng vốn có. Đặc biệt chúng được liên tục dùng theo “thời vụ”, đầy tính
công thức nên mau chóng trở thành sáo ngữ và chẳng mấy chốc ngầm chứa hài hước,
không nhiều thì ít, đối với người không hứng thú mấy với chế độ Bắc kỳ toàn trị.
1/
Chẳng hạn từ “bọn xấu” nay không còn
nghĩa bọn ác độc chuyên giết người cướp của, tham lam lừa gạt… mà có nghĩa phổ
biến chỉ “bọn” hay phê bình hoặc bày tỏ ý kiến bất lợi cho chính sách cai trị của
Đảng. Trị dân càng độc đoán thì càng phải vận dụng chữ nghĩa, chữ mang nghĩa mới
càng phát triển vì nhu cầu biện minh, giải thích lòng vòng. Tỉ như xưa nay vẫn
nói quốc kỳ hoặc cờ nước, nếu muốn nói thuần Nôm, nay thì phải là “cờ tổ quốc”,
tức cờ đó đã có từ thời ông cố ông tổ xa lắc xa lơ. Mọi người đều biết sự thật
không phải vậy nhưng vẫn… OK nói như vậy vì truyền thông, báo chí dạy nói vậy,
tự nhiên như người Hà Nội!
Người ta không thể đặt thêm từ nên đành dùng từ
cũ để cấu tạo nhóm từ tạo nghĩa khác, nghĩa đôi khi chung chung, khá mơ hồ. Chẳng
hạn “diễn biến hòa bình”, theo nghĩa thông thường phải là tốt nhưng ở
đây phải hiểu có nghĩa vô cùng xấu xa chứa đầy âm mưu đen tối, chống Đảng, tức
là chống “tổ quốc”! Rõ ràng chưa có thời nào từ tiếng Việt lại biến nghĩa rầm rộ
tràn ngập như ngày nay.
Mà không chỉ từ và ngữ,
những thay đổi về cách diễn đạt tức các kiểu câu mới đáng chú ý. Xem một trận đá banh trên TV, tôi chỉ biết thở dài thườn thượt kiểu
nói của mấy tay bình luận. Trăm lần nói chỉ một kiểu câu: Cú đá vừa rồi
là của… Cản phá vừa rồi là của… Cuộc thoát xuống là của… Phạm lỗi là của… Người
bị phạm lỗi là… (Lúc nào cũng chăm bẳm danh từ hóa động từ, tất chỉ
còn cách dùng LÀ làm trung gian câu và chỉ độc một kiểu câu này suốt buổi, tại
sao “kiên định” quá vậy?).
Thay vì nói “rất cần thay đổi chiến thuật” hay
“chiến thuật cần thay đổi” thì lại nói, rất mệt, “những sự thay đổi chiến thuật
là rất cần”. Thay vì nói “thủ thành lao ra bắt dính banh” thì lại nói rất
chữ nghĩa “thủ môn có cuộc lao ra để có cuộc xử lý bóng chính xác”. Chỉ
cần nói “phải chi anh đá nhanh hơn may ra thắng bàn” thì nói “anh không thể có
được cú đá nhanh hơn để xử lý tốt tình huống”. Thay vì nói “đội chủ nhà không
thể phản công” thì bảo “không có giải pháp phản công cho đội chủ nhà”.
Câu này nữa, mới khổ: “Đội X với tình trạng hiện
nay là rất là khó khăn”. Sao không nói “đội X đang gặp khó khăn lớn”, từ chỉ
hơn phân nửa, câu dễ nói, ý rõ hơn. Thay đổi cách nói thì cũng được nhưng sao
thay đổi một trăm kiểu câu phong phú của Việt ngữ bằng mỗi kiểu từ LÀ làm trung
gian? Mà đâu phải một anh nói, anh nào cũng nói một kiểu như thế, lúc đầu là
cái nôi “văn hóa” VTV, nay thì mọi TV, HTV còn bắt chước kỹ hơn. Thường vẫn vậy,
học trò luôn thực hành nghiêm hơn thầy!
2/
Xin hỏi quí ông bà anh chị một lần, nói thế
thì được cái dài hơn, chữ Hán cầu kỳ hơn, nghĩa tối hơn, còn hay hơn là hay chỗ
nào xin “chỉ đạo” một lần cho kẻ kém cỏi như tôi được “quán triệt”! Nghe mãi kiểu
tường thuật dài dòng, cầu kỳ và lạt nhách như vậy tự nhiên nhớ tới se lòng
chuyên gia tường thuật túc cầu Huyền Vũ của Đài phát thanh Sài Gòn thuở trước.
Ông này không biết học ở đâu hay thiên tài tự phát mà làm mê mẩn hàng triệu con
tim tín đồ túc cầu giáo của miền Nam một thời đá banh hân hoan vui vẻ. Không cần
đến sân Cộng Hòa xa xôi tốn tiền, nằm nhà ôm cái radio transistor cũng đủ “thấy”
quả da lăn tưng bừng trên sân cỏ. Thậm chí thiên hạ mê ông tới nỗi đến sân trực
diện trái banh rồi vẫn phải mang theo radio để được nghe ông nói. Thỉnh thoảng
ông nhắc oang oang trên máy:
– Xin quí vị ngồi gần chỗ chúng tôi vặn radio nhỏ lại
hầu đỡ trở ngại cho chúng tôi trong việc tường thuật, xin đa tạ.
Nói tường thuật nhưng thật ra ông miêu tả cụ
thể, lời tường thuật phong phú, diễn tả sự việc hết sức sống động, hoạt cảnh
như hiện ra trước mắt, đôi khi đưa ra những nhận xét riêng độc đáo với ngôn ngữ
văn vẻ rất thú vị. Chẳng hạn:
Anh dùng mũi giày hãm đà banh, lắt léo thần tình
thoát ra sự truy cản của hai chiếc áo đỏ, đem banh xuống, xuống nữa… Anh trả
ngược lại sát mép cột dọc lọt qua cả rừng chân… Thưa quí vị, Ngôn chân trái vừa
dứt tung lưới đội Quan Thuế, đóng thêm cái đinh trên thảm bại của đội này. Bóng
chiều đã ngã dài trên sân cỏ Cộng Hòa, trận cầu chỉ còn năm phút phù du, khán
giả quanh chúng tôi đã lục tục ra về…
Tôi ghi lại theo ký ức hao mòn, không đủ tài
diễn được sự hào hứng không cùng khi nghe Huyền Vũ tường thuật đá banh. Tôi tin
những cái tape tài liệu đó vẫn còn lưu ở Đài phát thanh Sài Gòn, ước gì các
biên tập viên thể thao của “bên thắng cuộc” chịu khó nghe, may ra họ nghĩ lại
cách nói của mình sao cho đỡ phần nào hư hao Việt ngữ. Nhớ hồi Thanh Tâm Tuyền
còn sống, ảnh cứ cười kiểu nói “trời có khả năng mưa”. Anh không ngờ ngày nay
người ta không còn nói… giản dị (!) vậy nữa mà phát triển thành “Khả năng trời
mưa là rất lớn”. Câu nào cũng phải LÀ, hình như không “là”… là sai “pháp lệnh”.
Từ thuở hình thành đất nước, tổ tiên ta vẫn dạy
tiếng Việt không bao giờ cần đặt LÀ trước tính từ làm vị ngữ câu. Đóa
hoa rất đẹp, bài hát quá hay, anh chị tử tế lắm… chứ chẳng ai nói cái
hoa rất là đẹp, bài hát rất là hay, anh chị rất là tốt… Nó thừa và dở tệ.
Nay thì văn nói và viết như nhau, không trực tiếp dùng động từ, tính từ nữa mà
gần như tuyệt đối nói, viết theo cách: Biến động từ và tính từ thành danh từ, đặt
lên đầu câu làm chủ ngữ, thế rồi phải có LÀ tiếp theo… Tỉ như khả năng
thất bại của công ty là rất lớn; khả năng được hỗ trợ của đơn vị là rất nhỏ; khả
năng giải thể công ty là rất lớn; khó khăn của làng nghề là rất nghiêm trọng… Sao
không nói dễ nghe hơn: Công ty rất có thể thất bại; đơn vị khó tìm được
nguồn tài trợ; công ty có nguy cơ bị giải tán; tình cảnh làng nghề quả thật khó
khăn…
3/
Ngôn ngữ nào cũng vậy, tệ nhất cũng phải đủ
lời đủ ý rồi làm sao ít lời đủ ý, cuối cùng ít lời
nhiều ý là các văn bản nghệ thuật, thơ chẳng hạn. Hồi nhỏ có lần tôi
nghe ông bác họ tuy ít học nói với một anh chàng người làng có tật ba hoa: “Mi
nói cả buổi mà tau cô lại không được chén nhỏ”. Bác mà còn sống chắc ông không
khỏi ngạc nhiên nghe nhiều vị tiến sĩ, nhiều ông quan lớn phát biểu chỉ đạo
trên TV hoặc qua phỏng vấn các thứ khiến thính giả phát bịnh: dài, dai, tránh
trớ, câu hỏi và câu trả lời không ăn nhậu gì tới nhau và có vẻ chính họ đôi khi
chắc cũng không biết mình muốn nói gì. Sao lại có một thời thổ tả lạ lùng, cùng
những loại tiến sĩ dỏm và giả ngập tràn trên đất nước khốn cùng về văn hóa quá
mức chịu đựng như vậy.
Vào được Facebook, thấy thiên hạ đôi lần nhận
xét về âm nhạc, ca khúc Việt Nam, tôi cũng muốn xía vào đôi chút lãnh vực mình
không đủ thẩm quyền, nhưng thây kệ, chẳng hạn mình đâu có làm thơ hoặc có làm
thơ… dở nhưng vẫn chõ miệng nói chuyện thơ, có hề gì đâu!
Nói chuyện ca hát thế này chắc làm mất lòng
nhiều người, không những rất dễ bị chửi mà còn bị phun nước bọt vào mặt (kẻ ngoại
đạo dám hỗn hào chạm vào các đấng làm nghệ thuật nhạc ca cao quí). Có điều cũng
liều, mình phải đâu kẻ nổi tiếng nổi tăm gì, viết cho bạn bè đọc chơi, nói thiệt
lòng mình về chuyện nhỏ hát ca mà cũng không dám thì mong gì nói tới những trái
ngang tày trời khác!
4/
Tôi cũng nghĩ như mấy ông nọ, chưa từng có hiện
tượng “văn hóa” nào quái đản bằng cái gọi là âm nhạc, ca khúc Việt Nam hiện
nay. Phần nhiều những bài hát đó đích thị chẳng dây dưa gì tới thứ xưa nay nhân
loại vẫn gọi là âm nhạc, còn lời ca thì thô lậu, ngô nghê thua hẳn lời nói bình
thường và tầm thường nhất. Nhưng, lạ lùng thay, mấy người viết ra thứ ca nhạc
đó vẫn được gọi nhạc sĩ một cách trang trọng; người la hét mấy bài đó vẫn là ca
sĩ (có người nói lái kiểu Bùi Giáng, họ là “ca sĩ của đảng” tức “ca sảng của đ…”.
Đặc biệt hơn hết, họ giàu chưa từng thấy, nhất
là đám ca hét, uốn éo trong ánh đèn màu chớp nháng. Đã đành, Việt Nam bây giờ
là xứ sở của nghịch lý. Nghịch lý gần như tất cả mọi lãnh vực khác, tuy phải
tìm nguyên nhân xa gần mệt mỏi, nhưng vẫn có thể hiểu ra. Riêng cái kiểu đờn ca
đang thịnh hành là một sản phẩm tinh thần quái dị, không cách gì hiểu được vì
sao nó phát triển và được đông đảo người trẻ hưởng ứng, do đó đem đến giàu có
khiếp đảm cho bao nhiêu người làm thứ “nghệ thuật” kinh hoảng đó.
Nhận xét về lời ca, sau khi bỏ qua phần nhạc
điệu, Nguyễn Hưng Quốc cho rằng nghe những ca khúc Việt Nam khiến ông phát bịnh
vì lời ca dễ dãi, sáo mòn và cũ mèm. Đây có thể ông chỉ nói tới nhạc Việt Nam
tiền chiến và miền Nam thời nội chiến. Ông trích mấy đoản ngữ như “dòng suối lững
lờ”, “mối sầu vạn cổ”, “tim rạn vỡ”… để mà ớn. Theo tôi, nếu ông công bình hơn
thì hẳn thông cảm các nhạc sĩ tiền chiến. Họ viết các ca khúc đó cùng thời với
sự phát triển của thơ mới. Ca từ của họ mang hơi hám của thơ mới mà nay ai cũng
biết không còn mới và những mỹ cảm lãng mạn kiểu đó nay đà lạc hậu. Thật ra,
không hẳn tất cả chúng đều quá tệ. Lời trong nhạc Văn Cao cũng rực rỡ, sang cả:
Thiên Thai, ánh trăng xanh mơ
tan thành suối trần gian
Ái ân tiên thiên, em ngờ phút
mê cuồng có một lần.
Thiên Thai, chốn đây hoa xuân
chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng
chưa tàn qua một lần…
Sông Lô, sóng ngàn Việt bắc bãi dài
ngô lau, núi rừng âm u
Thu ru bến sóng vàng từng nhà
mờ biếc chìm một màu khói thu
Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn
màu nước sông Lô xưa…
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về…
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông…
Lê Thương cũng viết nên những lời ca lộng lẫy,
đầy hình tượng:
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng
Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về
Ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề
Nhìn chân trời xanh biếc bao la
Người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
Đường chiều mịt mù cát bay tỏa bước ngựa phi
Đường trường nếp tàn y hùng cường
vẫn còn bay trong gió
Bóng từ xa sắp dần qua bóng chàng chập chùng
vượt núi qua khe
Với hành lương độ đường, chiếc hùng
gươm danh tướng
Dưới tà huy đếm nhịp đi vó ngựa phi
Dấn bước tang bồng giữa nơi núi rừng
Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan, tiễn đưa
bóng chàng…
Tứ thơ dồi dào, chữ nghĩa có vẻ sáo nhưng vô
cùng thích nghi với nội dung chuyện kể. Thậm chí nếu không có mấy từ ngữ “dưới
tà huy”, “nếp tàn y”, “bước tang bồng”, “hành lương độ đường”, “hùng gươm danh
tướng”… thì… hết hay. Và tuyệt vời biết bao: “Đồi ai oán, rừng đa đoan tiễn đưa
bóng chàng”.
Khi nhạc cần đến thơ thì hầu như phải thơ… dễ
một chút. Hình như Phan Xuân Sinh có lần hỏi Phạm Duy sao không phổ nhạc thơ Tô
Thùy Yên, ông bảo thơ đó “trí tuệ” quá, khó lắm! Không tưởng tượng được đem thơ
vắt dòng đi phổ nhạc. Chẳng lẽ:
Nàng có ba người anh đi bộ
đội những đứa em nàng…
Còn thơ “hậu hiện đại” các thứ thì… vô phương,
phải không? Muốn thoát ra khỏi không khí thơ mới cũng như các ca khúc ướt át miền
Nam, Trịnh Công Sơn có vẻ là người nỗ lực cách tân lời ca nhất. Tuy vậy, nhờ
giai điệu dịu dàng nâng đỡ ta lướt qua chớ chữ nghĩa của ông cũng nhiều chỗ…
làm khó người nghe không ít. Ví như: Vết lăn; vết lăn trầm; hằn lên phiến đá
nâu thêm ưu phiền; như có lần chim muông…; hằn dấu chân người đi phiêu du từ
đó… Rõ ràng tìm liên kết các ý với nhau… mệt nghỉ! Câu này nữa: “Em đi về cầu
mưa ướt áo”. Phải nói lại, “em đi cầu về mưa ướt áo” thì mới đúng… ngữ pháp!
(xin lỗi nhạc sĩ nơi vĩnh hằng, tôi đùa giỡn chút, đời buồn quá!).
Nhạc Phạm Duy có vẻ cần đến thơ lung lắm. Có
người nói rằng nhiều thi sĩ nhờ Phạm Duy mà đời biết đến. Nếu quả thế thì mấy
nhà thơ đó không phải thứ thiệt hoặc quần chúng đợi phổ nhạc rồi mới đọc tới
thơ họ thì cũng chẳng biết phải nói gì. Ở đây quả thật không biết ông
thần cậy cây đa hay cây đa cậy ông thần. Cung Trầm Tưởng
có lần nói đúng, thơ, tự nó đã có nhạc nên phổ nhạc thêm cho nó chỉ là chuyện vẽ
rắn thêm chân, (mặc dù Phạm Duy đã viết nhạc cho thơ của ông).
5/
Thật ra, nhạc cổ điển Tây Phương đâu cần tới
thơ. Beethoven viết nhạc cho thơ Schiller trong Huynh Đệ Giao Hưởng
Khúc là một chuyện hiếm. Nhân đây cũng nói luôn chuyện ngâm thơ. Tôi
vô cùng ngại nghe ngâm thơ theo tiếng sáo tiếng đàn uốn éo dặt dìu (cũng như hồi
còn đi dạy sợ xem giáo viên trường này trường kia múa, lạnh lạnh sống lưng, về
bịnh). Những ngân nga kéo dài lời thơ ê a ư ử làm khổ đôi tai
phải kỳ khu nhận ra từ để hiểu nghĩa. Mấy điệu ngâm ẻo lả đó phải hay ho gì cho
cam mà làm khổ thiên hạ như tra tấn không bằng.
Thơ phải chăng chỉ nên đọc lên theo cảm xúc của
mình mà sách vở gọi đọc diễn cảm. Xin khẳng định không phải đọc diễn cảm bằng
cách nhấn giọng tùy tiện rất nhảm nhí của phần lớn giáo viên tiểu học và mẫu
giáo dạy cho trẻ nhỏ hiện nay. Nghe các em thiếu nhi kể chuyện trên TV, tôi ngượng
ngùng vì thấy rằng kiểu diễn cảm đó không dây dưa gì tới tiếng Việt. Chẳng hiểu
ai bày đặt thứ ngữ điệu bằng cách nhấn mạnh từ, đụng đâu nhấn đó theo chủ quan
người dạy, chướng tai kỳ quặc bao nhiêu năm rồi. Việt ngữ thật ra rất ít trường
hợp nhấn từ, Cao Xuân Hạo không nói sai. Không hiểu do đâu mà xứ ta, chỗ nào
cũng thấy sai. Tại người có quyền chỉ đạo ngồi không đúng ghế chăng? Tự nhiên
nhớ tiếng Việt vui của Phan Khôi: Sai thì sửa, sai đâu sửa đó, sửa đâu
sai đó, sai đó sửa đâu.
Phạm Duy còn nương vào dân ca để xây dựng sự
nghiệp. Tôi không dám nói ca khúc ông không hay, không nghệ thuật, chỉ nói ông
nương nhờ nhiều mấy điệu dân ca thôi. Hình như có lần Cung Tiến nói rằng tân nhạc
là tân nhạc, pha trộn dân ca này nọ là không ổn hay không xứng đáng gì đó, tôi
không chắc. Lúc đó Phạm Duy nổi tiếng quá, tôi nghĩ Cung Tiến hơi tị hiềm. Về
già, tôi cho rằng Cung Tiến khách quan chứ không phải hiềm khích.
Nghe mấy bài hát Hương Xưa, Hoài Cảm…
với giai điệu đẹp đẽ sang trọng bàng bạc air nhạc cổ điển, mênh mang một
nỗi u hoài của ông thì nghĩ không phải ông nhiều chuyện. Ông chỉ khen Phạm Duy
vài bài, hình như Bên Cầu Biên Giới, Thuyền Viễn Xứ… Theo tôi, Phạm
Duy xuất sắc nhất khi viết lời Việt các ca khúc nổi tiếng phương Tây, trong đó
có nhạc cổ điển. Dù sao thì tôi cũng, xin nói thật, ít thích thơ phổ nhạc. Muốn
thơ thì đọc thơ, muốn nhạc thì nghe nhạc cổ điển.
Không ai hơn ai trong chuyện này, tất cả do
thói quen và sở thích. Một phần cũng do may mắn có điều kiện tiếp xúc từ nhỏ
thánh ca Tin Lành, air cổ điển thấm dần, riết thành quen rồi không thể thiếu.
Cũng không thể phủ nhận sự liên tưởng và mối liên lạc thơ nhạc. Trong tập Thơ
Ở Đâu Xa, Thanh Tâm Tuyền dặn con gái: “Để đọc bài thơ trên, cô Th nên nghe
đoạn Presto trong Concerto Mùa Hạ của Vivaldi”. Ông tinh tế thật!
Tôi không tin phải thấu đáo nhạc lý thì mới
nghe được nhạc cổ điển. Tôi cũng không tin lắm chuyện phân tích giai điệu, nhịp
điệu tường minh thì mới hiểu và cảm được thứ âm nhạc đó. Như vậy, phải rành
phân tích thơ thì mới hiểu và cảm được thơ sao? Thật ra, chỉ bọn nhà giáo mắc
chứng nghề nghiệp lọ mọ phân tích thơ cho học trò tạm hiểu các thứ để thi cử nhảm
nhí chứ thơ, chỉ nên làm thinh mà đọc một mình. Cũng như âm nhạc, chỉ nên lặng
lẽ nghe mà cảm nhận.
Rõ ràng rằng cõi đời không mấy gì vui, người
lương thiện miên viễn bị các thế lực tôn giáo, phong kiến ngày xưa đàn áp nên
âm nhạc của họ buồn quá thể (ngày nay quan lại còn đàn áp man dã vạn lần hơn –
nhưng cứ bảo dân chủ triệu lần hơn – mà âm nhạc thì chỉ có hát tôn vinh và tụng
ca, hiểu sao cho thấu!). Theo cảm nhận chủ quan, ví dụ mấy bài concerto cho đàn
violin hay nhất của Beethoven, Chopin, Tchaikovsky, Bruch, Brahms, Sibelius,
Mendelssohn… hầu như tất cả phần nhiều đều diễn tả nỗi sầu nhân thế, khi thì u
hoài man mác, lúc thê thiết não lòng. Nhất là mấy dòng đầu violin solo sau lúc
dàn nhạc khai từ của mấy bản concerto đó, nghe mà muốn chết. Tiết điệu nhanh
đòi hỏi kỹ thuật cao của các danh cầm như Paganini vẫn thấy buồn, mới lạ.
Tạ ơn các bậc thiên tài cho chúng sinh mọn hèn
như tôi nghe những thanh âm tuyệt vời, nhận ra tâm hồn vĩ đại của những người
văn minh thuở trước. Nhưng ngạc nhiên và đau lòng bao xiết kể khi vào YouTube
xem thử thì thấy Leonid Kogan chơi violin Concerto của Mendelssohn được cả thảy
26,051 người nghe; Akiko Suwanai trình tấu violin concerto N.1 của Max Bruch chỉ
được 184,836 trong khi Gangnam Style tới một tỷ bảy trăm triệu lượt người nghe!
Nhờ vậy đâm ra bớt buồn bực cho văn hóa, ca nhạc
xứ mình. Có lẽ “cái thời nó vậy”!
(Tựa
của Saigon Nhỏ)
No comments:
Post a Comment