Đọc
hồi ức của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng
Trần
Thị Nguyệt Mai
24/01/2022
https://www.voatiengviet.com/a/doc-hoi-uc-ba-qua-phu-ngo-quang-truong/6409975.html
https://gdb.voanews.com/C3DA9CE0-6C0A-4846-AF8C-7F0B62A96C29_cx0_cy8_cw0_w650_r1_s.png
Hình bìa hồi ức
Tháng Ngày Qua.
Tôi rất hân hạnh được là một trong những độc
giả đầu tiên khi cuốn sách “Tháng Ngày Qua” – Hồi ức của
Nhà văn Nguyễn Tường Nhung, chỉ mới là những trang bản thảo rời. Tác giả là trưởng
nữ của Nhà văn Thạch Lam và cũng là phu nhân của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
một trong những vị tướng lãnh xuất sắc và trong sạch của Quân Lực VNCH. Cuốn
sách hé mở cho chúng ta rõ hơn không chỉ về thân thế của hai gia đình rất nổi
tiếng - Thạch Lam và Ngô Quang Trưởng - mà còn như một cuốn phim quay lại hình ảnh
xã hội thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam cận đại, hiển hiện
nỗi khổ đau tận cùng khi mất mát cả tài sản lẫn những người thân yêu nhất trong
đời, nỗi lo âu của người vợ lính khi chồng ra chiến trận và phút giây lãng mạn
hạnh phúc khi chinh nhân trở về... Những ngày Tết Mậu Thân 1968 kinh hoàng thảm
thương ở Huế cũng được ghi lại một cách sống động.
https://gdb.voanews.com/C3DA9CE0-6C0A-4846-AF8C-7F0B62A96C29_w650_r0_s.png
Hình bìa hồi ức
Tháng Ngày Qua.
Khi viết về văn chương Thạch Lam, nhà văn Mai
Thảo đã dùng những lời ngợi khen đẹp nhất: “bút pháp chuốt lọc, trong sáng và
chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến” (1). “Bút pháp chính xác ông mãi mãi là
một vinh dự cho tiếng Việt, theo ý tôi” (2). “Những trang tiểu thuyết đôn hậu
và chứa chan tình cảm của Thạch Lam” (3) đã đi vào và ở mãi trong tâm hồn người
đọc với Gió Lạnh Đầu Mùa, Nhà Mẹ Lê, Hai đứa trẻ, v.v... Đọc “Tháng
Ngày Qua” càng thấy rõ hơn “văn chính là người”, để càng yêu mến Ông
hơn.
Trong đậm sâu trí nhớ của tác giả ngày ấy, khi
còn là một cô bé 6 tuổi, vẫn còn hiện rõ hình ảnh Bố Thạch Lam:
Bố tôi rất cao, da trắng hồng
trông như lai Tây vậy. Ông hay mặc bộ vét màu kem nhạt may bằng
hàng vải đũi, đầu luôn đội cái mũ phớt, chân đi giày tây, lúc nào
cũng bóng loáng. Quần áo của bố tôi lúc nào cũng phải là thẳng tắp.
Bố tôi rất ngăn nắp, thứ tự và rất quý sách. Ông có một tủ sách bìa
mạ chữ vàng được xếp rất ngăn nắp. (sđd, tr. 20)
Và Mẹ, bà Thạch Lam, người vợ mà Ông rất yêu
thương:
Mẹ tôi hơn bố tôi vài tuổi. Bà tuy hơi thấp so với bố
tôi, nhưng bà rất đẹp và rất khéo chiều bố tôi. Bà hiểu rõ rất tỉ mỉ từng chi
tiết, những sở thích của bố tôi và tôn trọng tất cả những gì mà bố tôi quyết định.
Cà phê mà bố tôi uống mỗi buổi sáng phải chính tay mẹ tôi pha. (sđd, tr. 22)
Cô vẫn nhớ như in sở thích ăn uống rất giản dị
của Bố:
Thức ăn bố tôi không đòi hỏi phải nhiều thịt, cá
hay thịnh soạn, nhưng món gì cũng phải thật tinh khiết, sạch sẽ, bày cho gọn và
đẹp mắt. Bố tôi thích những món ăn thanh như canh giò sống nấu rau ngót, cải
xanh nấu cá rô, rau muống luộc, đậu hũ chiên tẩm hành lá hay cá chép rán vàng,
và tuyệt đối không bao giờ được dọn món ăn mà đã dọn ăn ngày hôm trước. (sđd, tr. 23)
Cộng thêm thói quen đơn sơ nhưng rất hạnh phúc
của Ông sau bữa cơm chiều:
Ăn cơm xong bố tôi có thói quen ra ngồi ngoài hiên
trước nhà để ngắm cảnh. Tuy đã về chiều nhưng cũng còn một vài chiếc thuyền,
trên chở những cặp tình nhân. Họ
chèo thật chậm nhìn ngắm mặt trời lặn và thủ thỉ những lời âu yếm. Bố tôi lúc
nào cũng rủ mẹ tôi ra cùng ngồi và trò chuyện tâm tình cùng mẹ. Bố tôi ít nói,
nhưng khi nói thì đã diễn tả hết ý mình. (sđd, tr. 22)
Đặc biệt là tính thương người vô cùng tận của
Ông, để thấy tại sao văn chương Thạch Lam cũng giống như người:
Bố tôi rất khó tính và ít khi cười nhưng lại rất
thương người. Có thời gian nhà có một anh phu xe để kéo xe cho bố tôi đi làm
hàng ngày. Nhưng khi trời mưa thì bố tôi bảo mưa ướt tội nghiệp, khi nắng thì bố
tôi cũng bảo nóng quá kéo xe mệt, và thấy anh kéo xe đổ mồ hôi thì cũng không
đành. Rút cuộc bố tôi lại đi xe ngoài để đi làm. (sđd, tr. 23)
Nhà văn Thạch Lam mất rất sớm lúc mới ngoài 30
tuổi, khi văn tài đang vào độ sung mãn. Ngày ấy tác giả chỉ mới 6 tuổi, có hai
em trai, một lên 3 và một mới sinh được 3 ngày. Đang từ một cô bé được bố rất
yêu chiều:
Tối nào sau khi ăn cơm xong bố tôi cũng gọi tôi vào
phòng sách chỗ bố tôi ngồi hàng đêm để viết văn. Trên bàn viết của bố tôi ngoài
những giấy, bút, đặc biệt có một lọ kẹo tây. Những viên kẹo đủ màu sắc hồng lạt,
đỏ, xanh, trắng, đựng trong chiếc lọ bằng thủy tinh trông thật đẹp mắt và thật
là muốn ăn. Bố tôi mở nắp lọ, mùi kẹo bay thật thơm. Bố tôi lấy ra cho tôi một
cái... (sđd, tr. 23 & 24)
Cô trở thành đứa trẻ mồ côi cha. Sau đám tang
vài tháng, “bà nội tôi cho người lên Hà Nội đón mẹ và ba chị em chúng
tôi về trại Cẩm Giàng. Trại rộng hai mẫu tây, khang trang, nằm cách ga tàu
hỏa khoảng hơn cây số. Hai cánh cổng chính của trại khá to, sơn màu xanh, giàn
hoa tỉ muội màu hồng nhạt leo chung quanh” (sđd, tr. 27). Từ đây, gia
đình cô rời bỏ “căn nhà nhỏ nhưng rất thơ mộng ở tại đầu làng Yên Phụ, ngay
cạnh hồ Tây có cây liễu rủ, tàn liễu sà xuống gần mặt nước hồ... Đường
từ ngoài vào làng toàn lót bằng gạch đỏ. Trên đường đi chỗ nào cũng nhìn thấy
nước hồ... Đi sâu vào trong làng rất đẹp, hai bên là những hàng rào trồng bằng
cây duối, được cắt thật bằng phẳng. Khi tới mùa quả duối chín vàng trông xa như
những sợi tơ tằm óng ánh... Từ đó tôi chưa có dịp trở về lại làng
Yên Phụ nữa” (sđd, tr. 25)
Hình ảnh Bà Nội, người Mẹ hiền sinh ra những
người con thuộc nhóm khai sáng Tự Lực Văn Đoàn đã góp công rất lớn trong việc
hiện đại hóa xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua báo chí và tiểu thuyết, với
“tôn chỉ” được công bố trên báo Phong Hóa số 101 ngày 8 tháng 6 năm 1934 gồm 10
điểm, đúc kết lại trong nội dung: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn
đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả
quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời
nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam” (4):
Bà Nội dáng người cao to, nước da trắng hồng, gò má
hơi cao, đôi mắt sáng, sâu, trông như lai, toát ra một vẻ oai nghiêm cương nghị.
Bà rất nghiêm khắc và ít khi cười. Nhưng khi bà cười thì nụ cười thật tươi, lộ
hàm răng đen. Bà nói giọng Huế nghe hay hay và lạ. … Bà ăn uống cầu kỳ, kiểu
cách. Bát ăn bằng men xanh trắng viền chỉ vàng, đũa ngà, mâm bằng đồng thau
sáng loáng. Khi ăn phải từ tốn, thức ăn cũng phải sắp thứ tự, rau muống luộc để
ra đĩa, cọng và lá không lẫn lộn, cắt ra làm hai, khi chấm chỉ vừa đụng vào nước
chấm, cơm chỉ được xới một nửa bát... (sđd, tr. 30 &
31)
Bà rất kiên cường, thật giỏi, can đảm. Khi ông mất
bà còn rất trẻ, chưa tới 40. Một tay bà phải chăm sóc mẹ chồng và bảy người con
còn niên thiếu mà vốn liếng chỉ là một tiệm tạp hóa nhỏ, bán những thứ lặt vặt
như kim chỉ, muối, đường, diêm, nến, vài lọ kẹo bột, kẹo gừng, v.v... lời lỗ chẳng
được bao nhiêu. Nhưng nhờ vào việc cân gạo, cứ mỗi sáng sớm tinh mơ, những dân ở
các làng lân cận đem gạo lên bán, từng gánh hoặc thúng có khi chỉ mươi đấu đựng
trong cái bị đan bằng cói. Bà gom mua lại để bán lẻ, khách hàng là những gia
đình nghèo sống rải rác quanh phố chợ. Nhờ tài quán xuyến bà đã cho các con ăn
học... (sđd, tr. 32 & 33) Một tay
bà đã gây dựng được một gia đình làm rạng danh cho dòng họ, những văn tài đã để
lại cho những thế hệ nối tiếp (sđd, tr. 46). Sau này, khi các
con trai đã thành danh, bà xuống tóc xuất gia cửa Phật và ít khi về lại trại. (sđd,
tr. 33)
Cuộc sống êm đềm yên ả chẳng bao lâu thì loạn
lạc xảy ra, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Năm 1946, một đêm phố chợ Cẩm
Giàng bùng lên bốc cháy, khói bay mù mịt cả một góc trời (sđd, tr.
82). Giữa đêm đang ngủ, U (là vú em, người nuôi cậu em kế) lay cô dậy để cùng Mẹ,
hai em và U gánh gồng đi lánh nạn, đến tạm cư ở Xóm Đìa, cách Nhã Nam khoảng 5,
7 cây số, “một xóm rất nghèo, chỉ có khoảng mươi căn, phần đông đều lợp
bằng lá, và sống bằng ruộng nương nhưng là ruộng thuê lại gọi là cấy rẽ” (sđd,
tr. 35). Đến đây, U từ biệt về quê. Và cuộc đời của cô bắt đầu lật sang một
trang mới với rất nhiều vất vả, khó khăn.
“Khi đến Xóm Đìa, vài nhà quanh xóm cũng đã có mấy
người tản cư tá túc. Chúng tôi được chủ nhà tên Nhâm cho ở nhờ. Ông cho dọn dẹp
cho chúng tôi ở nhờ trong cái kho nhỏ, thường để chứa những dụng cụ nhà nông
như cuốc, xẻng, cày, bừa, dao liềm, v.v... và chỗ nằm của con vện đen. Cái kho
lợp bằng rạ, vách trát bùn trộn rơm đã cũ, vách có nhiều lỗ thủng, cửa là cái
phên đan bằng nứa có gắn một thanh tre để chống lên chống xuống. Bên trong, vẻn
vẹn chỉ có một cái giường bằng gỗ vừa đủ cho bốn mẹ con nằm, bên cạnh giường kê
ba hòn gạch chụm lại gọi là ông đồ bếp (theo ngôn ngữ lúc đó) để thổi nấu. Tắm
rửa hàng ngày thì ra ngoài ao. Nước uống và nước thổi cơm thì phải vào tận cuối
xóm gánh về; cả xóm đều dùng nước giếng ấy (sđd, tr. 35). Những ngày đầu thật bỡ ngỡ. Một khung cảnh quá
cách biệt. Chúng tôi như rơi vào một cơn ác mộng. Căn nhà kho chứa đồ vật dụng
bẩn thỉu, chật hẹp, một chỗ thua cả chuồng chó ở trại Cẩm Giàng của gia đình
chúng tôi (sđd, tr. 64). Mùa đông đến đem theo hơi lạnh, gió
rét của miền rừng núi. Bốn mẹ con co ro trên một cái phản gỗ, đắp một cái chiếu
cũng đã cũ. Mẹ đầu bên này, tôi đầu bên kia, kéo qua kéo lại. Con ấm thì mẹ lạnh
và ngược lại. Hai cậu em thì còn nhỏ ngủ vô tư. (sđd, tr. 69).
“Những năm đầu Mẹ còn có chút tiền đem theo, chúng
tôi có cơm gạo trắng, có chút ít thịt, cá” (sđd,
tr. 64). Đến khi hết tiền và bán đi tất cả những thứ đã mang theo, thì “Mẹ
sắp xếp cho tôi theo mấy cô trong xóm đi buôn cà chua và su hào, mỗi tuần hai
phiên chợ ngoài thị trấn Nhã Nam. Phải dậy từ sáng tinh mơ vào vườn cà
chua hoặc su hào họ đã hái sẵn rồi tùy sức của mỗi người gánh được nhiều hay
ít... tiền lãi cũng tạm để mua gạo có cơm trộn khoai hay sắn. Các em thì
vào rừng nhặt củi khô và nấm hạt dẻ (sđd, tr. 36). Thấy con quá vất vả
mà chẳng kiếm được bao nhiêu, nên khi được chủ nhà cho mượn toàn bộ đồ nghề và
có người cho mua thóc chịu, hai mẹ con chuyển qua nghề làm hàng xáo, tức
là “xay thóc, sàng bỏ trấu đi. Sau đó bỏ vào cối giã rồi vần, sảy cho
cám và tấm rớt ra” (sđd, tr. 67) cũng cực nhọc nhưng “lãi được tấm
để ăn, cám bán lấy tiền mua rau, muối, tương, cà. Nếu được thóc tốt thì thừa ra
một ít gạo. Những lần như vậy mấy mẹ con mừng lắm, nhưng cũng phải
độn thêm khoai hoặc sắn. Khi mùa gặt đến chúng tôi đi mót lúa... Thỉnh thoảng
tôi đi theo mấy đứa bạn đi hôi cá... Từ khi mẹ hết tiền chưa hôm nào được ăn no
và được ăn không độn. Thịt lợn, thịt bò thì xa lánh hẳn, gặp mùa gà bị toi là
lúc mới thấy mùi gà.
...
Ngày tháng vẫn trôi qua. Mẹ tôi không dám tự mình hồi
cư vì mịt mù tin tức, sợ bị Tây bắt. Thấm thoắt đã gần ba năm, chị em chúng tôi
mỗi người chỉ có hai bộ áo quần đã rách tả tơi” (sđd, tr. 37).
Trong lúc ấy, Bà Nội “rất lo lắng vì từ
khi chạy tản cư đã gần ba năm mấy mẹ con chúng tôi biệt vô âm tín”,
nên “thuê người đi tìm mẹ con chúng tôi” (sđd, tr.
38). Bà Nội đã giữ gìn cho các cháu: “Nếu không có Bà Nội có thể tôi đã
là một nữ cán bộ và các em có thể là bộ đội hay bệnh hoạn vùi thây nơi rừng
thiêng nước độc này!” (sđd, tr. 39).
Về lại Phố Chợ Cẩm Giàng, gặp lại bạn cũ, cũng
là lúc cô “thật ngỡ ngàng không thể tin được. Một trang trại rộng lớn đẹp
như thế ... bây giờ chỉ là bãi đất hoang.” Bạn cô cho biết, “Khi
Việt Minh rút đi họ đã đốt, đập phá hủy tất cả những dinh thự họ gọi là tiêu thổ
kháng chiến. Nghe nói vậy tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao Việt Minh lại làm
như vậy. Phá mất đi một trang trại nổi tiếng là đẹp, nên khi những chuyến tàu
chạy ngang đây có nhiều người giơ máy chụp ảnh, và tôi không còn được
ở đây nữa.” (sđd, tr. 41).
“Bắt đầu từ khi rời khỏi trại Cẩm Giàng, líu ríu dắt
ba đứa con chạy tản cư, hồi cư về thành, cơ nghiệp không còn gì. Mẹ rất nghèo,
nhờ Bà Nội giúp một phần, mẹ tần tảo, bươn chải nuôi con ăn học” (sđd, tr. 92). Và năm 1953 Bà Nội đã “đích thân đến nhà ông
Thám (Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam) để xin cho mẹ tôi một việc làm... Lương
tuy thấp nhưng cũng đủ sống cả mấy mẹ con và lại có nhà ở hai buồng nhỏ, có bếp,
bể chứa nước, trong cư xá Bưu điện đằng sau Nhà Hát Lớn, trước cửa Nhà Bác Cổ
Hà Nội.” (sđd, tr. 46 & 47)
Sau này, người thiếu nữ ấy gặp Trung úy Ngô
Quang Trưởng và khi kết hôn với nhau thì ông đã lên cấp Đại úy, Tiểu đoàn phó
tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Cuốn sách đã chia sẻ cuộc đời binh nghiệp của ông Ngô
Quang Trưởng bắt đầu từ lúc này. “Anh tham gia trận chiến nhiều hơn làm việc
ở văn phòng. Mỗi lần đi hai tới ba tuần mới trở lại đơn vị. Khi trở về anh đã gầy
lại gầy hơn, mặt sạm đen, đôi khi bị nổi ngứa khắp cả người. (sđd, tr.
130). Sau đó, được “đổi về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Sài Gòn (sđd,
tr. 139). “Khoảng thời gian này anh không phải ra trận liên miên như
khi còn ở Tiểu Đoàn. Chỉ đi thị sát, và đôi lần anh phải bay ra miền Trung để
cùng chỉ huy tham dự những trận đánh do quân Bắc Việt tấn công.” (sđd,
tr. 140)
Hơn một năm sau, “khoảng đầu năm 1966, ngay
tại thành phố Huế, tình hình khá gay cấn. Dân chúng biểu tình
chống đối chính quyền bằng cách đem bàn thờ Phật để ngoài đường phố... Anh
được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTU) bổ
nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, Bộ Tư Lệnh đóng tại Thành Nội Huế.
(sđd, tr. 150)
Ở Huế 5 năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh
Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ và “rất bận rộn, thời gian ở trên trực thăng
nhiều hơn dưới đất. Chỉnh đốn lại Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, thăm các tỉnh,
các quận, đồn bót, v.v...” (sđd, tr. 196)
Sau hơn hai năm trấn nhậm ở miền Nam hiền
hòa, “Anh nhận được lệnh thuyên chuyển không dự tính, không báo trước Tổng
Thống bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 1 đóng ở Đà Nẵng... Đây là lần thứ tư
đổi chỗ ở trong khoảng năm năm.” (sđd, tr. 201 & 202)
Tác giả đã ghi lại những diễn biến trong hai
tháng cuối cùng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa mà bà là một chứng nhân. Qua người tùy
viên, chúng ta thấy được hình ảnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trong ngày
cuối trước khi mất Đà Nẵng:
Giờ phút cuối ở Đà Nẵng, chỉ có anh và chú đi bộ ra
bên bờ biển Sơn Trà lặng vắng, mỗi người trên mình độc nhất chỉ một khẩu
súng (sđd, tr. 263). Theo lời người tùy viên kể lại ngày cuối tại Đà
Nẵng, anh và chú đã đứng tại chỗ này định kết thúc bằng viên đạn.” (sđd, 252)
Đọc những trang sách nói về cuộc đời binh nghiệp
của Tướng Ngô Quang Trưởng, độc giả có thể dễ dàng nhận thấy tuy là tướng lãnh
của một vùng, nhưng Ông thể hiện tác phong quân kỷ rất nghiêm chỉnh:
“Anh thức dậy sớm rất đúng giờ. Những cư dân trên
con đường anh đến Bộ Tư Lệnh mỗi ngày có tiếng đồn không cần xem đồng hồ, mỗi lần
thấy xe Tư Lệnh chạy ngang là biết đúng giờ đó anh di chuyển, không bao giờ có
xe còi hụ, không người hộ vệ, chỉ có một tùy viên. (sđd, tr. 263)
“Thời gian ở Huế và Đà Nẵng, những ngày cuối tuần
hay ngày lễ anh không bao giờ nghỉ. Tôi và các con không có bữa ăn trưa cùng
anh. Những bữa cơm tối anh thường về muộn, các con ăn trước, ôn bài vở để đi ngủ
sớm. Tuy sống cùng một nhà nhưng chúng chỉ gặp chào anh trước khi đi ngủ.” (sđd, tr. 264)
Những hành xử của Ông trong việc thi hành lệnh
quân đội không vị tình riêng, không kết bè, vây cánh để tạo ảnh hưởng riêng:
“... Từ Sài Gòn đổi ra Huế đảm nhận chức vụ Tư Lệnh
Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ có một người tùy viên đi theo, ngoài ra không một người
thân, ... Chuyện chỗ ở, phương tiện, người giúp việc cho gia đình anh cũng
để tùy văn phòng họ sắp xếp, tôi cũng không đòi hỏi, không lựa chọn.” (sđd, tr. 266)
Ông luôn luôn sát cánh, chia sẻ với thuộc cấp
trong từng nhiệm vụ:
Mỗi khi ra lệnh cấm trại anh luôn luôn cùng ở trong
trại với các anh em. (sđd, tr. 151)
Ông cũng không bao giờ lạm dụng chức vụ hay
quyền thế để làm ảnh hưởng đến công quỹ nhà nước:
Mùa hạ khi ở Huế, tôi hay đưa các con ra bãi biển
Thuận An. Trên đường xe chạy ngang những khu vườn xanh tươi cây trái hoa quả ẩn
hiện thấp thoáng những căn nhà lợp ngói đỏ đã phai màu, không gian có vẻ thanh
bình, các con thường mong anh đi cùng. Chúng hay hỏi sao Ba không đi, anh chỉ trả
lời một câu, “Ba bận làm việc”. Tuổi thơ vô tư chúng không thắc mắc. Tôi biết nếu
anh đi, phải có hộ tống, phải lo sắp đặt an ninh. Chỉ một lần vui chốc lát mà
bao người phải lo như vậy, lạm dụng công sức của quân đội, một chuyện không thể
có ở anh. (sđd, tr. 268)
Và sống rất khiêm nhường, giản dị:
Anh với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế, Tư Lệnh
Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 ở Đà Nẵng, phương tiện di chuyển của
tôi cũng chỉ là chiếc xe Jeep cũ mang bảng số dân sự. Thời gian làm Tư Lệnh vùng
Một ở Đà Nẵng, người Mỹ có cho một xe du lịch Huê Kỳ màu đen khá rộng để gia
đình sử dụng nhưng anh bảo tôi nhường xe ấy cho gia đình Tư Lệnh phó... (sđd, tr. 267 & 268)
Điều quan trọng nhất là Ông giữ gìn rất nghiêm
mật đức tính thanh liêm, trong sạch của mình. Còn nhớ “trong thập niên 1960 tại
Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh,
tứ Trưởng’ nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh này của
QLVNCH” (5).
“... một điều quan trọng là không nhận quà biếu
của bất cứ ai.” (sđd, tr. 157)
“... quan niệm sống của anh, anh dứt
khoát không giúp một ai dù là người thân thích. Anh nói người nào cũng có gia
đình, cũng có bố mẹ, cũng có con cái, trong thời chiến trận mình lo cho người
thân về chỗ yên lành như vậy còn gì là kỷ luật và còn ai bảo vệ quê hương. Anh
đã bị họ hàng thân thích trách hờn.” (sđd, tr. 297)
“Khi còn ở VN, sau bữa cơm tối ra ngồi ngoài sân,
anh phân tách những sự việc, những thâm hiểm, những đòn phép của con người khó
thể biết được mà vì vô tình hay vì sự tham lam, mình sẽ bị cạm bẫy. Nếu mình phạm
vào một lần sẽ có cớ để họ gây khó dễ, họ ăn mười mình ăn một nhưng tiếng tăm
mình lãnh hết và gây khó dễ cho công việc anh làm.” (sđd, tr. 271)
Sau đây là một ví dụ:
“Anh ăn giản dị không đòi hỏi nhưng tôi biết ý anh
thích những món mặn theo cách chế biến của miền Nam. Hai đứa nhỏ nhất thì thích
nấu theo kiểu Huế, còn tôi vẫn thích những món thanh nhẹ của miền Bắc... Tôi
thường phụ với chú đầu bếp luôn tiện dạy cho chú cách nấu những món của miền
Nam và miền Bắc. Món thịt gà là món mọi người ưa thích nhất, nhưng giá một con
gà khoảng hơn một nghìn cho cả nhà không đủ, mà mua hai con thì nhiều tiền quá.
Tiền chợ mỗi ngày đã chỉ định chỉ có một ngàn, vì vậy món thịt gà thường vắng
bóng trong những bữa ăn. Tướng Tư Lệnh một vùng
mà thức ăn hàng ngày cũng phải tính toán vì còn phải để dành một ít. Thời gian ở
miền Tây thực phẩm rẻ và có nhiều lựa chọn, đặc biệt là hải sản và rau củ trái
cây, nhờ vậy thức ăn đầy đủ hơn. Tuy vậy, chú bếp cũng không vui, than phiền.
Chú nói người tư lệnh trước đưa tiền chợ nhiều gấp hai mà lại ít
người hơn, gạo ngon có người cung cấp, nước tương nước mắm họ biếu cả thùng,
v.v... và v.v... Với tiền chợ tôi đưa gồm cả gạo mắm muối, chú phải tính mua những
món ít tiền mới đủ mặc dù tôi nói chúng tôi không cần những thức ăn cầu kỳ đắt
tiền.” (sđd, tr. 265, 266)
Thêm một ví dụ khác:
“Qua nhiều lần nói chuyện với Hòa, có những việc rất
nhỏ làm tôi áy náy tự cảm thấy như thiếu bổn phận làm vợ. Chú nói hai thầy trò
thường nhịn đói không có bữa ăn trưa. Bữa ăn sáng của anh là một bát cháo trắng
với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm. Tôi có nói để mua một tô bún bò
hay phở mì, anh hỏi giá bao nhiêu rồi nói mắc quá và mất công đi
mua... Hàng ngày anh đến văn phòng rồi lên trực thăng thăm các tiền đồn,
chỗ đóng quân, có khi đáp xuống một vài nơi đúng giờ ăn trưa họ mời nhưng không
bao giờ anh ở lại ăn. Chú cho biết hôm nào Trung Tướng ăn một hộp trái cây thì
Hòa ăn một hộp thịt. Những món đồ hộp thường có để một ít trên máy bay nhưng ít
khi ăn vì vậy tùy viên cũng nhịn theo.” (sđd,
tr. 264)
Tướng lãnh của một vùng mà bữa điểm tâm chỉ là
“một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm” thì
đủ hiểu được con người chân chính, thanh liêm của Ông đến bậc nào.
Bằng một văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và
chân thật thừa hưởng từ Bố Thạch Lam, tác giả Nguyễn Tường Nhung đã chia sẻ về
gia đình mình sau khi Nhà văn Thạch Lam mất cũng như về Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, “một người chồng đầy tình cảm lãng mạn, một người cha nhiều
trách nhiệm, đã sống một cuộc đời khiêm nhường, khép kín nhưng có lẽ thật bình
yên, hạnh phúc khi trở thành một di dân tị nạn tại Hoa Kỳ...” như lời
giới thiệu của Nhà xuất bản Thạch Ngữ ở bìa sau sách. Hy vọng Tháng Ngày Qua sẽ góp thêm tài liệu cho những
bạn trẻ hoặc những nhà viết sử tương lai khi muốn tìm hiểu về hai gia đình này
hay thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách cũng có thể
dựng thành phim ảnh vì nói đến xã hội và con người Việt Nam ở một thời kỳ vô
cùng nhiễu nhương. Có đầy đủ tình tiết của chết chóc, đau khổ lẫn vui tươi, sum
họp... Có những phân đoạn thương cảm khiến lệ tràn mi mà cũng có những phân đoạn
vui tươi với nụ cười hạnh phúc.
Trần Thị Nguyệt Mai
Tháng 1-2022
-----------
Tham
khảo:
(1) Mai Thảo – Phượng Hoàng Gẫy Cánh -
Khởi Hành số 60 ngày 2-7-1970 - Trần Hoài Thư sưu tập.
(2) Mai Thảo – Tuần báo Nghệ
Thuật số 35 – ngày 9-6-1966 – Trần Hoài Thư sưu tập.
(3) Mai Thảo – Tuần báo Nghệ
Thuật số 3 ngày 16-10-1965 – Trần Hoài Thư sưu tập.
(4) Mặc Lâm – Tìm hiểu về nhóm Tự
Lực Văn Đoàn
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/AcknowledgeOfTuLucVanDoan_MLam-20070826.html
(5) Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh,
tứ Trưởng
https://books9046.rssing.com/chan-61128279/all_p18.html
-----------------------------------
LIÊN QUAN
28/10/2021
- Đinh Quang Anh Thái
Việt
Nam Một Thế Kỷ Qua – Nguyễn Tường Bách và Tôi
24/09/2021
- Ngô Thế Vinh
100
năm sinh họa sĩ Tạ Tỵ và Giấc Mộng Con Năm 2000
17/11/2021
- Ngô Thế Vinh
Đi
tìm chân dung Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn với Thông Điệp Mùa Xuân
05/01/2022
- Ngô Thế Vinh
No comments:
Post a Comment