Myanmar,
Daw Aung Suu Kyi và cuộc cách mạng: Quản thúc tại gia (Phần 2)
Marco
Wenzel - NachDenkSeiten
Vũ Ngọc Chi, chuyển
ngữ
03/01/2022
Tiếp theo Phần 1
.
Sau Cách mạng Văn hóa và cái chết của Mao Trạch
Đông, sau một nhiệm kỳ ngắn ngủi của Hoa Quốc Phong, Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền
lãnh đạo Đảng CSTQ. Theo lý thuyết của Đặng, ông ta không quan trọng mèo trắng
hay đen, cái chính là nó bắt được chuột, ý thức hệ cộng sản đã lùi bước để ủng
hộ chính sách kinh tế thực dụng. Đặng muốn “trước hết để một số ít làm giàu” và
tăng cường sự chủ động của tư nhân trong nền kinh tế bằng cách cho phép tư nhân
sở hữu tư liệu sản xuất.
Đầu thập niên 1980, giới lãnh đạo Trung Quốc
đã thiết lập các liên hệ chính thức với chính quyền ở Miến Điện. Đồng thời, Bắc
Kinh cắt các khoản viện trợ trực tiếp cho CPB (Đảng Cộng sản Miến Điện). CPB,
hoạt động ngầm từ năm 1949 và chống lại chính quyền trung ương, đã nhận được sự
hỗ trợ về tư tưởng, trang thiết bị và vũ khí từ Đảng CSTQ cho đến cuối thập
niên 1970. Khoảng một phần tư doanh thu của CPB đến trực tiếp từ Trung Quốc và
một nửa tổng doanh thu của nó đến từ thuế quan mà họ thu được từ thương mại biên
giới đen với Trung Quốc. Khoản thu nhập này giờ đã bị mất do chính Trung Quốc
hiện đã mở cửa khẩu chính thức với Miến Điện và tự đánh thuế. CPB đột nhiên phải
tự lực cánh sinh.
Khoảng 80% đồn điền trồng cây thuốc phiện ở
đông bắc Miến Điện nằm trong các khu vực do CPB kiểm soát. Cho đến nay, CPB
luôn có xu hướng ngăn chặn việc trồng cây thuốc phiện và hỗ trợ việc trồng ngũ
cốc thay thế, giờ đây đã tự mình tham gia buôn bán thuốc phiện, một cách phi
chính thống để kiếm tiền cho một đảng cộng sản. Giờ đây, họ đòi 20% số thuốc
phiện thu hoạch được từ nông dân và cũng đánh thuế việc buôn bán thuốc phiện tại
các chợ trong khu vực họ kiểm soát và việc bán thuốc phiện ra bên ngoài. Chẳng
bao lâu, hàng tấn thuốc phiện đã chất thành đống trong các kho chứa CPB. Từ đó,
nó được đưa, ban đầu chủ yếu là trong các đoàn lữ hành qua địa hình không thể
vượt qua, đến các phòng thí nghiệm heroin ở Tam Giác Vàng nằm về phía nam và
bán cho họ. Các đoàn lữ hành thường có hàng chục con vật và được canh gác cẩn mật.
Các phòng thí nghiệm heroin lại được điều hành
bởi những ông trùm ma túy địa phương, những người đã kinh doanh lâu năm ở Tam
Giác Vàng và những người đã đưa các nhà hóa học nước ngoài đến để sản xuất
heroin. Heroin từ Tam Giác Vàng được những người nghiện coi là đặc biệt tinh
khiết và chất lượng cao. Công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất heroin IV đặc
biệt khắt khe và nếu thực hiện không đúng cách, toàn bộ phòng thí nghiệm sẽ bị
nổ tung. Không phải công việc cho các nhà hóa học nghiệp dư.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/01/1-9.jpg
Tam Giác Vàng. Nguồn: Chiang Rai Times| UNODC
Để đơn giản hóa việc vận chuyển gian khổ và
nguy hiểm, CPB sớm cho phép các ông trùm ma túy điều hành các phòng thí nghiệm
riêng trong khu vực của họ và đòi “tiền bảo vệ” cho việc này. Vì cần khoảng 10
kg thuốc phiện để sản xuất 1 kg heroin, trọng lượng của hàng hóa phải vận chuyển
đã giảm xuống. Kinh doanh phát triển mạnh ở biên giới với Trung Quốc, nơi CPB đặt
trụ sở chính. Những ngôi làng nhỏ trước đây đã trở thành những thành phố cỡ
trung bình với các nhà máy điện và cơ sở hạ tầng của riêng họ. Có những sòng bạc
và nhà thổ khổng lồ ở những thành phố này. Từ đó, đạo đức của các cấp lãnh đạo
của CPB trở nên xấu đi, và thay vì theo đuổi những ý tưởng của Mao Trạch Đông,
họ chuyển sang làm kinh doanh mờ ám. Năm 1989, những người lính cấp dưới của đảng
đã nổi loạn và CPB chia thành bốn nhóm nhỏ, nhanh chóng được các dân tộc trong
khu vực tiếp thu. Ban lãnh đạo đến Trung Quốc, nơi Đảng CSTQ cho họ lưu vong và
một khoản tiền trợ cấp nhỏ với điều kiện họ ngừng tham gia chính trị.
Tuy nhiên, việc trồng và buôn bán thuốc phiện
vẫn tiếp tục không suy giảm, và các băng đảng xã hội đen địa phương hiện đã
hoàn toàn tiếp quản công việc kinh doanh này. Ngoài ra, những người cộng sản
còn để lại những kho vũ khí, đạn dược và xe cộ đủ loại mà họ đã nhận được từ
Trung Cộng trong thời gian qua. Các tổ chức xã hội đen Trung Quốc đã tiếp nhận
những gì còn lại của CPB chỉ trong vài tháng và trở thành tổ chức ma túy có vũ
trang nhất trên thế giới. Chính quyền quân sự hiện đã ký kết các thỏa thuận với
những lãnh chúa này, hứa cho phép họ được tự do hoạt động và cho phép họ sử dụng
các đường phố của Miến Điện để vận chuyển ma túy nếu họ kiềm chế được phiến
quân.
Bằng cách này, chế độ độc tài quân sự ở
Rangoon đã loại bỏ các đối thủ của mình ở phía đông bắc, những vùng lãnh thổ mà
họ chưa từng kiểm soát, nhưng từ đó họ liên tục bị tấn công quân sự. Và sau khi
phe đối lập năm 1988 ở Rangoon bị sát hại hoặc phải ngồi tù, NLD suy yếu và Suu
Kyi bị quản thúc tại gia, chính quyền có thể củng cố quyền cai trị của mình đối
với miền nam Miến Điện, đồng bằng Irrawaddy và khu vực miền trung và theo đuổi
công việc kinh doanh của riêng mình mà họ kiểm soát thông qua các công ty MEHL
và MEC của họ. Và từ trước tới ngay cả bây giờ không phải là ít. Hoạt động kinh
doanh của quân đội bao gồm khai thác mỏ, công trình dân dụng, công ty vận tải,
nhà máy bia, nhà máy sản xuất thuốc lá, ngân hàng riêng, hãng tàu riêng, ngành
du lịch, v.v… Không có nhánh kinh tế nào mà quân đội không tham gia thông qua
các công ty của chính họ, và không có nhà đầu tư nào từ nước ngoài có thể kinh
doanh qua mặt chính quyền.
Hiến pháp mới và lộ
trình tiến tới dân chủ
Sau cuộc cách mạng 88, chế độ ở Miến Điện thường
xuyên chịu áp lực từ phương Tây để thực hiện các cải cách dân chủ như một điều
kiện tiên quyết cho các mối quan hệ thương mại và kinh tế cũng như sự công nhận
về mặt chính trị. Chế độ mà Trung Quốc và Nga vẫn là “những người bạn” duy nhất,
không muốn giao phó quá nhiều cho một mình Trung Quốc và do đó trở nên dễ bị tống
tiền. Chế độ quyết định tạo cho mình một diện mạo dân chủ.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 1993, một đại hội quốc
gia đã được triệu tập để vạch ra những nét chính của một hiến pháp mới. Ủy ban
triệu tập Công ước Quốc gia chủ yếu bao gồm các sĩ quan quân đội và các quan chức
chính phủ được chọn lọc kỹ lưỡng. NLD đã bị khai trừ khỏi Quốc hội vào năm
1995. Vào tháng 5 năm 1996, chính quyền bắt giữ hơn 500 nhà hoạt động, chính trị
gia và những người ủng hộ NLD. Sau đó, đại hội quốc gia bị đình chỉ tạm thời.
Aung Suu Kyi được trả tự do và bị cầm tù trở lại nhiều lần trong 21 năm, từ năm
1989 đến 2010. Bà ấy không bao giờ có thể lãnh đạo Đảng một cách bình thường
vào thời điểm đó. Năm 1997, Miến Điện trở thành thành viên của ASEAN, chỉ để được
quốc tế công nhận. Myanmar chưa bao giờ có đóng góp cho ASEAN và luôn là vấn đề
cho khối này lo lắng.
Năm 2003, chính quyền, vốn ngày càng bị cô lập
trên bình diện quốc tế, đã đưa ra “lộ trình bảy bước tiến tới dân chủ”. Đại hội
toàn quốc lại được triệu tập, nhưng nhiều lần bị đình chỉ. Một hiến pháp cuối
cùng cũng nên được soạn thảo, sau đó, “ngay khi luật pháp và trật tự được khôi
phục”, các cuộc bầu cử sẽ được tổ chức và trao quyền cho kẻ chiến thắng, một
thông báo đầy gian xảo và mưu mẹo, bởi vì hiến pháp được viết theo cách để bảo
đảm quyền tối cao của Quân đội, bất kể ai thắng cử.
Vào tháng 11 năm 2005, chính quyền bắt đầu
chuyển trụ sở đến thủ đô mới, Naypyidaw. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 11
năm 2005, Myanmar được yêu cầu đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa và trả tự do cho
tất cả các tù nhân chính trị.
Cuộc cách mạng nghệ
tây và cơn bão Nargis
Vào ngày 15 tháng 8 năm 2007, chính quyền cắt
giảm trợ cấp nhiên liệu trong nước, khiến giá cả tăng gấp 5 lần. Từ tháng 9, đã
có các cuộc biểu tình, ban đầu là chống lại việc tăng giá. Các cuộc biểu tình sớm
hướng tới chống lại chế độ như vậy. Các cuộc biểu tình lần này do các nhà sư Phật
giáo lãnh đạo, do đó có tên là Cách mạng nghệ tây.
Cuối tháng 9, chế độ bắt đầu đàn áp những người
biểu tình. Quân đội ập vào các tu viện và bắt giữ các nhà sư. Có hàng trăm vụ bắt
giữ và tùy thuộc vào thông tin, có tới 200 người chết. Các nhà lãnh đạo dân sự
đối lập cũng bị bắt. Internet đã bị cắt. Vào ngày 29 tháng 9, cuộc cách mạng bị
dập tắt. Bà Suu Kyi bị quản thúc tại gia trong suốt thời gian đó, và các nhà
lãnh đạo NLD hầu hết đã bị bắt trước đó. Vào cuối năm 2007, một ủy ban mới được
thành lập để soạn thảo hiến pháp mới, đã bắt đầu công việc của mình. Một cuộc
trưng cầu dân ý về hiến pháp sẽ được tổ chức vào tháng 5 năm 2008 và cuộc bầu cử
cuối cùng sẽ diễn ra vào năm 2010.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/01/2-696x928.jpg
Các nhà sư diễu
hành qua Rangoon trong cuộc nổi dậy năm 2007. Nguồn: burmacampaign.org.uk
Ngày 2 tháng 5 năm 2008, xoáy thuận Nargis, một
xoáy thuận nhiệt đới, đã đổ vào Myanmar. Tình trạng khẩn cấp được ban bố tại 5
tỉnh với tổng số 24 triệu dân. Toàn bộ đồng bằng Irrawaddy, bao gồm Rangoon, bị
ảnh hưởng, toàn bộ khu vực bị ngập lụt, hàng chục ngàn người chết và hàng trăm
ngàn người vô gia cư bị tàn phá nhà cửa. Khu vực này đã được tuyên bố là khu vực
thiên tai. Thiếu lương thực. Tuy nhiên, chế độ không cho phép bất kỳ người giúp
đỡ hoặc cứu trợ từ nước ngoài nào vào nước.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/01/1-10.jpg
Trẻ em và người lớn
ở Miến Điện giơ tay xin thức ăn trợ cấp. Nguồn: Getty Images
Thay vì hoãn cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp
ngày 10 tháng 5, chính quyền để người dân bỏ phiếu trong bối cảnh hỗn loạn sau
Nargis. Bất kỳ hành động nào để thất bại cuộc trưng cầu dân ý có thể bị phạt tù
lên đến ba năm hoặc phạt tiền nặng. Chế độ kêu gọi trên các phương tiện truyền
thông toàn quốc hãy đồng ý với hiến pháp. Với tỷ lệ cử tri đi bầu hơn 99%, hiến
pháp này sau đó đã được thông qua với 92,4% số phiếu đồng ý. Hầu như không ai
trong khu vực bầu cử có điều kiện đọc tài liệu về hiến pháp này. Tuy nhiên, nếu
không đồng ý với hiến pháp, sẽ không có bầu cử, người dân bị đe dọa như vậy, một
cơ quan truyền thông cũng được sử dụng ở Thái Lan để thực thi một hiến pháp phi
dân chủ do quân đội viết ra.
Theo hiến pháp, quân đội Miến Điện được dành
25% số ghế trong quốc hội cho các ứng cử viên do tổng chỉ huy quân đội chỉ định.
Một sửa đổi hiến pháp chỉ có thể được thông qua với 3/4 đa số, vì vậy quân đội
luôn có quyền phủ quyết trong quốc hội khi cần sửa đổi hiến pháp. Ngoài ra, các
chức vụ của Bộ trưởng Nội vụ, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Biên phòng tự
động thuộc về các thành viên của quân đội. Bằng cách này, quân đội bảo đảm quyền
kiểm soát đối với các bộ quan trọng nhất và sự quản lý của nhà nước, bất kể ai
là người chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Bất chấp mọi lời hứa cải cách,
chính quyền quân đội Miến Điện không bao giờ có ý định từ bỏ quyền kiểm soát đất
nước.
Là nhân vật có sức lôi cuốn nhất trong phong
trào dân chủ, bà Aung Suu Kyi ngay từ đầu đã là một cái gai trước mắt đối với
phe quân đội. Để ngăn việc bà, là người đã kết hôn với một người Anh và có hai
con trai với ông (chồng bà mất năm 1999), có thể trở thành Tổng thống, hiến
pháp quy định rằng không ai có thành viên gia đình nước ngoài được giữ chức vụ
này. Do đó, sau chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2015, NLD đã tạo ra chức vụ Ủy
viên Quốc vụ đặc biệt cho bà. Tại cơ quan này, sau đó bà vẫn trở thành người đứng
đầu chính phủ trên thực tế.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/01/1-11.jpg
Lãnh đạo đảng Dân
chủ Aung San Suu Kyi chào đón hàng ngàn người ủng hộ qua hàng rào ngôi nhà của
bà khi bà được trả tự do ở Yangon, Miến Điện. Nguồn: EPA
Trong điều kiện này, các cuộc bầu cử đầu tiên
kể từ năm 1990 đã diễn ra vào năm 2010. NLD tẩy chay các cuộc bầu cử và bà Suu
Kyi vẫn bị quản thúc tại gia. Lệnh quản thúc tại gia chỉ được dỡ bỏ vào tháng
11 năm 2010. Trong các cuộc bầu cử phụ hồi tháng 4 năm 2012, bà Suu Kyi đã
tranh cử một ghế trong quốc hội lần đầu tiên.
Phản ứng với những điều mà nước ngoài coi là một
quá trình cải cách dân chủ, Nhật Bản và EU đã nối lại viện trợ phát triển và
đình chỉ các lệnh trừng phạt của họ, và Ngân hàng Thế giới đã cấp cho Miến Điện
một khoản vay viện trợ. Mỹ cũng hủy bỏ các lệnh trừng phạt của mình. Mọi người
đều nhiệt tình và cuối cùng đã nhìn thấy Myanmar trên con đường tiến tới dân chủ.
Chuyện này quá đẹp, bạn chỉ muốn tin mà cố tình bỏ qua rằng dù muốn vặn vẹo thế
nào đi nữa thì quốc hội Myanmar cũng chỉ là quốc hội trên hình thức và quyền lực
vẫn thuộc về quân đội, chỉ bị che đậy một cách đáng xấu hổ dưới áo choàng chế độ
dân chủ. Vẻ mặt xấu xí thật sự của quân đội đã thể hiện lại với khuôn mặt tàn
nhẫn của nó chưa đầy mười năm sau đó, sẽ được nói nhiều hơn trong phần thứ ba.
Suy ngẫm về nhân
cách của Daw Aung Suu Kyi và tương lai của Myanmar
Ngay từ đầu, chính sách NLD dựa trên các
nguyên tắc bất bạo động như Mahatma Gandhi đã thực hiện ở Ấn Độ. Suu Kyi là một
người có phong cách lôi cuốn với sức hút mạnh mẽ và biết cách truyền cảm hứng
cho mọi người. Nhưng bà không phải là một nhà lý luận chính trị như Lenin, Mao,
Fidel Castro hay Hồ Chí Minh, những người có tư tưởng đã chín mùi, cũng không
phải là một nhà cách mạng có lộ trình thay đổi hệ thống ở Miến Điện. Bà ấy chưa
bao giờ giải quyết những ý tưởng về tự do và dân chủ của mình về mặt lý thuyết
và cũng chưa bao giờ chỉ ra những ý tưởng của bà nên được thực hiện như thế
nào. Nó luôn mơ hồ, nhưng mọi thứ nên luôn được thực hiện thông qua phản kháng
bất bạo động. Và vì vậy về cơ bản nó chỉ là một giấc mơ mà bà muốn biến thành
hiện thực. Theo nghĩa này, bà ấy thậm chí còn phi chính trị hơn Martin Luther
King. Đối với họ, dân chủ nên được thực hiện thông qua hòa giải và đối thoại
dân tộc, nhưng Tatmadaw rõ ràng không quan tâm đến việc đối thoại với bà ấy.
Bà Suu Kyi luôn mong muốn một thế giới không
có bạo lực và từ chối đáp trả bạo lực bằng bạo lực đối lại. Nhưng những ý tưởng
theo chủ nghĩa hòa bình đều đẹp và tốt, và khi đối mặt với một đối thủ tàn nhẫn
như Tatmadaw được trang bị tận răng, chúng đều vô hiệu. Tatmadaw tự coi mình là
tầng lớp ưu tú của xã hội Miến Điện, nếu không có, người Miến Điện sẽ bị diệt
vong, và ít nhất những người lính bình thường, những người sống trong một thế
giới song song được che chắn khỏi phần còn lại của xã hội, tin vào điều đó. Họ
được truyền bá kỹ lưỡng và họ tin rằng họ đang bảo vệ hệ thống vì lợi ích của cả
đất nước. Những thuyết phục tốt đều không có hiệu quả, Tatmadaw đánh đập và giết
những người trong mắt họ chỉ là những kẻ thù của Miến Điện, những kẻ muốn hủy
diệt đất nước. Và họ đang làm tốt cho Miến Điện trong quá trình này.
Suu Kyi luôn sẵn sàng thỏa hiệp, ngay cả sau
nhiều năm bị quản thúc tại gia, bà không có ác cảm với quân đội và nói rằng bà
luôn được đối xử tốt. Khi được hỏi về thái độ của mình đối với các vị tướng, bà
ấy thậm chí còn nói rằng, họ “thật sự khá tốt”. Ngay sau khi đàn áp các cuộc biểu
tình vào tháng 9 năm 1988 và cuộc tắm máu tiếp theo bởi Tatmadaw, có những hành
động trả thù của người dân đối với những kẻ được cho là thủ phạm. Một số
trong nhóm này đã bị người dân địa phương bắt và giết ngay tại chỗ. Sau đó, khi
Suu Kyi biết tin dân chúng bắt giữ các lực lượng đàn áp, bà thường xuyên cử người
của mình, thường cũng là các nhà sư, đến đó để cứu sống những người Tatmadaw bị
bắt. Chính quyền đã cảm ơn bà ấy ngay sau đó bằng việc bắt giữ bà ấy và quản
thúc tại gia. Một chút về chủ nghĩa hòa bình và bất bạo động, người đọc nên tự
suy nghĩ riêng cho mình.
Suu Kyi là một Phật tử rất sùng đạo. Bà ấy dậy
sớm vào buổi sáng, thiền định và đã đặt ra một kỷ luật nghiêm ngặt cho bản thân
khi nói đến thời khóa biểu hàng ngày của bà. Bà là một phụ nữ chăm chỉ với những
tính cách hơi thần bí. Quyền lãnh đạo của NLD rơi vào tay bà Suu Kyi vì không
ai khác có sức hút mạnh mẽ tương tự và vì bà là con gái của cha bà, anh hùng
dân tộc Aung San, vẫn là một thần tượng đối với tất cả người dân Miến Điện. NLD
luôn là một phong trào hơn là một đảng. Phần lớn được phát triển một cách tự
phát hơn là được lên kế hoạch và chuẩn bị về mặt tư tưởng.
Ngay cả khi bị quản thúc tại gia và che chắn
trước công chúng, Suu Kyi vẫn là một biểu tượng cho những người theo bà. Bà là
một phụ nữ trẻ dũng cảm, dám thách thức chế độ độc tài quân sự. Dũng cảm Suu
Kyi luôn có, bạn phải công nhận bà ấy điều đó. Hình ảnh đã lan truyền khắp thế
giới khi bà dũng cảm bước tới gần những người lính đang chĩa súng vào bà. Ngoài
việc bất bạo động, lòng dũng cảm và lòng tin tưởng là một trong những chủ đề trọng
tâm trong cách giảng dạy của bà, mà bà truyền lại cho những người theo mình. Một
trong những cuốn sách của bà có tựa đề “Thoát khỏi sợ hãi”. Người phụ nữ trẻ
trung, hấp dẫn và can đảm này là hiện thân của một câu chuyện khơi dậy lòng nhiệt
thành không chỉ ở Miến Điện mà trên toàn thế giới. Ngoài giải Nobel Hòa bình,
Suu Kyi còn nhận được vô số giải thưởng lớn nhỏ khác, từ các tổ chức công đoàn,
tổ chức phi chính phủ đến các trường đại học, những giải thưởng này đã trao cho
bà bằng tiến sĩ danh dự. Đó là câu chuyện của David đấu với Goliath, chỉ có
Goliath là chưa bị đánh bại trong câu chuyện này. Và cũng như thế giới hướng về
Aung Suu Kyi một cách nhiệt tình vì bà thể hiện một câu chuyện mà thế giới rất
thích, thì cộng đồng thế giới cũng quay lưng lại với bà một cách đột ngột khi
người ta tin rằng bà Suu Kyi không phản đối kịch liệt việc đàn áp người
Rohingya và rằng bà không còn tương ứng với lý tưởng mà chính họ đã gán cho Suu
Kyi.
Tuy nhiên, Suu Kyi cũng là một người thuộc dân
tộc Bamar và vấn đề hòa nhập dân tộc thiểu số chưa bao giờ là một vấn đề gần
gũi với trái tim bà. Đối với bà, Myanmar được coi là một quốc gia, các dân tộc
thiểu số nên phục tùng lợi ích của quốc gia, nhưng quốc gia đó sẽ như thế nào,
đất nước tương lai sẽ được xây dựng dựa trên những tầng lớp nào, liệu nó nên trở
thành một Myanmar tư bản chủ nghĩa hay một nước xã hội chủ nghĩa. hoặc một cái
gì đó ở giữa, “Con đường thứ ba”, chẳng hạn, luôn là một bí ẩn. Câu hỏi này đến
câu hỏi khác, một chương trình đảng sẽ phải làm rõ điều đó. Và điều này giải
thích lập trường của bà ấy về câu hỏi Rohingya, một vấn đề mà bà ấy làm mất uy
tín của bản thân trên trường quốc tế, nhưng lại đại diện cho một quan điểm khá
phổ biến ở Myanmar, ngoại trừ những người bị ảnh hưởng.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/01/1-12.jpg
Một gia đình
Rohingya lội nước qua biên giới từ Myanmar sang Bangladesh. © UNHCR/Roger
Arnold
Sau khi NLD lãnh đạo chính phủ vào năm 2016,
người ta nhanh chóng thấy rõ rằng các nhà lãnh đạo của nó có cùng quan điểm với
những người tiền nhiệm của họ khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến người dân
bản địa Myanmar. Hòa bình và thịnh vượng cho tất cả mọi người chỉ có thể đạt được
ở Myanmar nếu quyền của các dân tộc bản địa đã cư trú ở đó trong nhiều thế kỷ
và những người không thể bị cai trị ngay cả bởi quyền lực thuộc địa Anh thời đó
và phần lớn vẫn giữ được quyền tự trị của họ, cũng nên được ghi trong hiến pháp
liên bang mới. Các nhóm bản địa thường hầu như không có bất kỳ giấy chứng nhận
quyền sở hữu nào cho đất đai của họ; các thửa đất đã được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Họ cũng có các nhà lãnh đạo, chính phủ, chính quyền và quân đội
của riêng họ.
Khi biên giới quốc gia được vạch ra, bổng dưng
chỉ một ngày sau, chúng thuộc về Miến Điện, nhưng chúng không có mối liên hệ
nào với chính quyền trung ương của Bamar và hầu như vẫn chưa có được điều đó
cho đến ngày nay. Cũng không thể chấp nhận được việc một chính phủ do Bamar
lãnh đạo, nhưng cho đến nay, quy định mà không có sự tham vấn, phải tuân theo
luật nào, sống như thế nào, phải nộp thuế cho ai, nói ngôn ngữ nào và hơn thế nữa,
ai sở hữu đất mà họ đã sống qua nhiều thế hệ. Việc công nhận các quyền về đất
đai theo tập quán của người bản địa phải trở thành một phần không thể thiếu của
một nước cộng hòa liên bang mới, chưa được thành lập của Myanmar mà không có
Tatmadaw.
Chính phủ mới, trên thực tế giống như chính phủ
của đảng đối lập, đang nỗ lực hướng tới một nước cộng hòa liên bang sau khi nội
chiến kết thúc, đã nhận ra điều này và bắt đầu các cuộc đàm phán với những người
thiểu số để giải quyết vấn đề. Bởi vì sự hỗ trợ của các nhóm dân tộc thiểu số
và quân đội của họ để lật đổ chính quyền quân sự hiện tại cũng phụ thuộc vào
đó. Chỉ khi các nhóm dân tộc bị loại trừ trước đây cảm thấy rằng, cuộc sống của
họ sẽ là một cuộc sống tốt hơn trong một quốc gia tương lai, họ mới sẵn sàng
đưa binh lính của mình phục vụ cho chính phủ NUG (National Unity Government) để
đánh bại Tatmadaw. Nhưng nếu sau này mọi thứ vẫn giữ nguyên như vậy, thì tại
sao họ phải chiến đấu ngày hôm nay?
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment