13/01/2022
https://vietbao.com/p139a310820/chuyen-quanh-chiec-banh-it
https://vietbao.com/images/file/WTn-BQTX2QgBABUa/w600/banh-it-la-gai.jpg
Bánh ít lá gai
Có lẽ không có người Việt Nam nào là không biết
chiếc bánh ít, có điều tùy theo vùng miền mà có hình dáng khác nhau như hình
tam giác, hình vuông ở miền Bắc, hình trụ ở miền Trung, hình tháp ở miền Nam,
và tùy theo nguyên liệu gói bánh hay nhưn bánh mà có tên gọi: Bánh ít trần,
bánh ít lá gai, bánh ít nhân trần, bánh ít nhân mặn, v.v...
Theo truyền thuyết trong nghệ thuật ẩm thực,
người Việt Nam từ thời xa xưa đã biết làm nhiều loại bánh. Ngoài sự tích bánh
chưng, bánh dày, món quà dâng cha mẹ của chàng Lang Liêu hiếu thảo, truyện cổ
tích còn kể về nàng Út Ít, cũng là con gái vua Hùng học theo Lang Liêu, dùng nếp
làm ra bánh ít. Và tên chiếc bánh ít cũng đã có mặt rất sớm trong kho tàng ca
dao, tục ngữ Việt Nam, như lời trách khéo của chàng trai với cô gái:
Bánh cả mâm sao em gọi là bánh... ít
Trầu cả chợ sao em gọi là trầu không?
Hay để chỉ sự trao đổi, thỏa thuận qua lại: “Bánh
ít đi, bánh quy lại”, và để nhắc nhở về các vùng đất, người xưa đã có ca
dao:
Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.
Hay
Muốn ăn bánh ít nhân mè
Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm
Muốn ăn bánh ít nhân tôm
Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì.
Hoặc đưa vào lời rao:
Ai mua bánh ít bán cho
Nhưn tôm, nhưn thịt, nhưn dừa ngọt ngon.
Như vậy, bánh ít đã có từ rất lâu đời trong đời
sống ẩm thực và cả văn hóa của dân tộc Việt, trong quá trình mở cõi về phương
Nam, bánh ít đã theo chân cha ông trong quá trình mở cõi, và qua phát âm theo
thói quen của người miền Nam, bánh ít được phát âm thành “bánh ích”, lý giải về
điều này, nhà nghiên cứu văn hoá Hồ Nhật Quang, cho rằng tên gọi và hình dáng của
chiếc bánh dân dã này là cả một nét văn hoá sâu sắc của người dân phương Nam:
“Đó là tên bánh dựa trên hình dáng của nó.
Bánh có hình tam giác, theo Hán tự là hình chữ “Ích”. Trong kinh dịch, 1 trong
64 quẻ dịch là “Phong lôi ích” hay còn gọi tắt là quẻ ích (phong là gió, lôi là
sấm, có gió có sấm là sẽ có mưa xuống, mùa màng tươi tốt, là điềm tốt, có ích).
Ích có nghĩa là thêm được lợi, vươn lên suôn sẻ, là tăng lên, làm tốt cho
nhau. Hình dáng bánh như hình tam giác mang hình ảnh rất đặc sắc
của dân khai khẩn, đó là hình lều trại. Thuở khai hoang của cư dân Việt
thế kỷ 16, 17, miền Nam rất hoang vu, lưu dân vùng Ngũ Quảng đến
phương Nam phải dựng lều trại để nương thân, lập nghiệp. Mép gấp của bánh tượng
trưng cánh cửa của lều. Người miền Nam khi gói bánh ích còn gấp đỉnh đầu
xuống một chút, có nơi gọi là bánh nóc chùa. Điều này mô tả thời khai khẩn, người
ta phải nương náu cùng nhau trong những đền chùa...”
Bánh ít thường được làm trong những dịp lễ Tết,
đám giỗ để dâng cúng Tổ tiên, tưởng nhớ ông bà và thường được kèm với trái cây,
vật phẩm cúng tế để làm quà mang về nhà cho người đến dự lễ hay đám giỗ nên thường
đi đôi với câu nói “giỗ quải” mà theo từ điển Tiếng Việt, “quải” là
phương ngữ có nghĩa là “vãi hay rải thóc cho gà ăn”, ở đây có ý chia cho và
mang về, hay nói vui theo... dân gian là lo đám giỗ thì phải... “quải” oải người,
mệt người! Hay đi ăn giỗ thì phải “quải về”, mang vác quà về?
Nói đến bánh ít, thì phải nói đến tài nội trợ
khéo léo và đảm đang của người phụ nữ làm ra chiếc bánh ít, đó là công đoạn chế
biến chiếc bánh ít từ những cân nếp thơm, đậu xanh, cơm dừa nạo, đậu phộng, thịt
heo, tôm sú và cả những chiếc lá gai hay lá chuối nữa...
Ngày bé, bọn trẻ chúng tôi thường theo mẹ hay
bà, ngồi nhìn bàn tay khéo léo của bà, của mẹ, cẩn thận vo, gút từng nắm nếp
thơm trong nước cho sạch, xong để ráo, rồi bỏ vào cối xay gạo, xay nhuyễn thành
bột gạo, xong bỏ vào bòng, lấy cối đá dằn lên cho ráo nước chờ nặn thành bánh
(hiện nay, đã có máy xay bột, đỡ bớt công đoạn cực nhọc nhất cho người làm
bánh). Trong khi chờ bột, lại phải lo chuẩn bị nhân, tùy theo muốn làm bánh “ngọt”
hay “mặn” chia ra bánh nhân hay còn gọi là nhưn: đậu xanh, nhân dừa, đậu phộng,
thịt heo hay tôm chấy, v.v... rồi đến chuyện hấp trần, hay gói lá chuối, lá
gai. Bánh gói lá chuối cho bánh màu xanh nhẹ, gói lá gai cho bánh màu đen bắt mắt,
bỏ thêm ít lá dứa, bánh có mùi thơm nhẹ, kích thích vị giác của người ăn, và mỗi
chiếc bánh ít... lại tràn đầy tình cảm của người gói, của tấm lòng con cháu
cúng dâng lên các đấng hiền nhân, tổ phụ, ông bà... và cả tấm lòng san sẻ, chia
cho con cháu, hàng xóm, láng giềng đến cùng chung chia sẻ, tưởng nhớ. Bánh ít
còn được dâng cúng trong đền chùa, miếu mạo mỗi kỳ tế lễ và luôn được coi là
món quà thanh khiết được cúng dường bởi những con trẻ, tín đồ... đầy lòng thành
kính.
Chiếc bánh ít nhân đậu xanh, ngọt bùi. Chiếc
bánh nhân dừa, vị ngọt béo, sừng sực của những hạt đậu phộng chín... hay phong
vị thơm ngon của thịt heo, của tôm chấy, đủ cả... ngũ hành trong ẩm thực và cả
âm dương, cân bằng trong ăn uống dưỡng sinh của người xưa, gợi nhớ bao kỷ niệm
của đấng sinh thành và người thân ruột thịt trong mỗi kỳ lễ cúng. Gợi nhớ cả tuổi
ấu thơ của một vùng quê với bao họ hàng thân thích. Tên là chiếc bánh ít nhưng
đầy và nhiều những tình cảm họ hàng dòng tộc mỗi khi đến kỳ giỗ chạp hay cúng kỵ
tiền nhân mở cõi.
– Trần
Hoàng Vy
No comments:
Post a Comment