Nhân
kỷ niệm 60 năm thành lập Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (6/12/1961 – 6/12/2021)
Mạc
Văn Trang
05/12/2021
Được Thông báo, mời tham gia phát biểu trực
tuyến Lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Viện. Nhưng tôi không phát biểu đâu! Vì Kỷ niệm
60 năm của bất kỳ đơn vị, tổ chức nào trong chế độ ta, thì đều là ngày VUI MỪNG,
phấn khởi với biết bao THÀNH TÍCH và đón nhận HUÂN CHƯƠNG, Bằng khen túi bụi,
nghe những LỜI CÓ CÁNH từ các cấp lãnh đạo… Để rồi sau đó tất cả lại trở về với
“cái máng lợn”! Do đó tôi chỉ xin chia sẻ vài điều tâm sự với những bạn quan
tâm.
1. Nhớ lắm các thế
hệ đi trước.
Tôi về Viện tháng 9/1968, đi sơ tán ở Canh Nậu,
Sơn Tây. Lúc đó Viện tách đôi là “Viện Khoa học giáo dục” và “Viện Chương trình
và Phương pháp”, cùng chung trụ sở 101 Trần Hưng Đạo và cùng sơ tán một nơi. Viện
KHGD do anh Nguyễn Đức Minh và Hà Thế Ngữ phụ trách; Viện CTPP do anh Nguyễn Sĩ
Tỳ và Phạm Văn Hoàn phụ trách. Hình như đến 1970 thì nhập làm một với tên gọi:
Viện KHGD Việt Nam. Việc này rất hợp lý.
Bây giờ thế hệ đầu tiên của Viện còn tại thế,
mình nhớ một số anh chị, toàn trên dưới 90 tuổi: Chị Phạm Diệu Vân, Nguyễn Cao
Lũy, Đặng Bích Hà (Vợ tướng Giáp), Anh Phạm Tất Dong, Nguyễn Thế Trường…
Lứa NCV Tâm lý học về cùng với mình chỉ còn ít
người, cũng U 90 cả rồi: Hoàng Xuân Hinh, Ngô Đặng Minh Hằng, Phạm Hưng Trinh,
Ôn vi Sơn, Phạm Nguyệt Lãng, Nghiêm Thị Phiến, Vũ Thị Nho,… Lứa tiếp sau thì
không nhớ hết.
Nhớ những anh chị thân thiết với tôi, ân nhân
của tôi đã mất: Nguyễn Đức Minh, Hà Thế Ngữ, Đỗ Thị Xuân, Phạm Văn Hoàn, Phạm
Hoàng Gia, Nguyễn Thị Tân, Hà Vỹ, Phạm Huy Thụ, Đặng Xuân Hoài, Phạm Ngọc Luận,
Nguyễn Thị Lý, Lê Sơn, Nguyễn Huy Diễm, Nguyễn Lê Hoà, Đặng Ngọc Riệp, Nguyễn Kế
Hào…
Một thời những người lãnh đạo vừa là Thầy vừa
là đồng nghiệp thân thiết, những bạn bè gắn bó thân thương chia ngọt sẻ bùi và
tất cả đều say sưa hết mình với KHOA HỌC. Rất tiếc bao nhiêu báo cáo khoa học,
bài viết chỉ được viết tay, đánh máy, in roneo, được xuất bản thành sách chuyên
khảo quá ít. Sau bao đảo lộn, giờ đây các tài liệu cũ chắc vứt hết đi rồi. Viện
mà không có Lịch sử nghiên cứu các môn khoa học, chỉ có Lịch sử nhập – tách –
nhập, đổi tên?!
2. Tiếc lắm, Viện
KHGD VN vì đâu tan tác?
Vào đầu những năm 1970, anh Nguyễn Đức Minh,
Hà Thế Ngữ, Nguyễn Văn Hoàn, sau này có anh Phạm Minh Hạc về, Viện KHGDVN được
thiết kế theo mô hình Viện Hàn lâm KHGD của CHDC Đức và một số nước, nhưng
không có các “Viện con” mà là các BAN và TRUNG TÂM. Viện có 3 Ban lớn là Giáo dục
học, Tâm lý học và Chương trình phương pháp. Dưới Ban là các Phòng/Trung tâm định
hướng nghiên cứu chuyên sâu với 3 lớp cán bộ nghiên cứu kế tiếp; mỗi chuyên
ngành đều bồi dưỡng những đầu đàn để thành các “NHÀ”/ Chuyên gia: Nhà Xã hội học
giáo dục; Nhà Kinh tế học giáo dục, Nhà Giáo dục so sánh, Nhà Lịch sử giáo dục,
chuyên gia về Quản lý giáo dục, chuyên gia về Đánh giá giáo dục, chuyên gia về
Giáo dục gia đình; Nhà Tâm lý học giáo dục, nhà Tâm lý học Dạy học, nhà Tâm lý
học Hướng nghiệp, Nhà Tâm lý học về nhân cách nhà giáo, Nhà Tâm lý học lứa tuổi/phát
triển, Chuyên gia Tâm lý học học đường; Các chuyên gia về giáo dục trẻ khuyết tật;
các chuyên gia về phát triển Chương trình giáo dục, các Chuyên gia về Lý luận dạy
học, về Phương dạy học bộ môn; các chuyên gia về Thiết bị dạy học,…
Lúc đó có cuộc tranh luận sôi nổi: Viện nghiên
cứu cơ bản, khoa học chuyên sâu là chính hay phục vụ các hoạt động thực tiễn của
Bộ là chính? Cuối cùng đi đến đồng thuận rằng: Phải nghiên cứu KHOA HỌC CƠ BẢN,
CHUYÊN SÂU LÀ CHÍNH (~70% nguồn lực) trên cơ sở đó mới CÓ CÁI để phục vụ cho những
hoạt động “thời vụ” của Bộ có cơ sở khoa học; mới có các CHUYÊN GIA có uy tín để
có tiếng nói ĐỦ TIN CẬY. Nhờ định hướng đúng đắn đó nên dù đói rách, nhưng nhiều
cán bộ nghiên cứu say sưa bám chắc đối tượng nghiên cứu, cặm cụi đọc sách, dịch
sách, điều tra, làm thực nghiệm, theo mục đích dài hạn, trở thành những nhà
chuyên môn. (Các bạn có nhớ GS Nguyễn Mạnh Tường cũng “ngồi lỳ” ở Thư viện để dịch
sách của Jean-Jacques Rousseau và viết cuốn Giáo dục châu Âu?).
Những năm ấy, Viện KHGD là đơn vị có uy tín
chuyên ngành khoa học lớn nhất so với các đơn vị khác, vì đã đào tạo được đội
ngũ “đầu đàn”. Chẳng hạn Ban Tâm lý học không chỉ đào tạo trong ngành Sư phạm,
mà còn vào dạy cả trong Học viện Chính trị quân sự, trong Học viện An ninh
(C500),…
Có được những thành tựu ấy là do Bộ Trưởng
Nguyễn Văn Huyên là nhà khoa học; ông hiểu rằng, giáo dục muốn phát triển đúng
thì phải trên cơ sở nghiên cứu khoa học căn cơ, mà nghiên cứu thì phải xây dựng
Viện KHGD cho đàng hoàng, để yên cho cán bộ nghiên cứu yên tâm làm việc ổn định,
chừng chục năm mới cho được sản phẩm có giá trị, đồng thời hy vọng có được một
đội ngũ chuyên gia… Bộ cần vấn đề gì, Bộ trưởng chỉ gọi vài chuyên gia lên trao
đổi. Cả viện vẫn yên tĩnh làm việc… “Trong yên tĩnh thì hình thành trí tuệ”!
Tôi nhớ, vào năm 1971, Anh Đức Minh bảo anh Phạm
Hoàng Gia và tôi lên gặp Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên để trao đổi về vấn đề “TRẺ
EM HƯ”. Chủ yếu là Thầy Gia chuẩn bị, tôi mới tập sự nghiên cứu, chỉ đi “điếu
đóm” để học hỏi. Bộ trưởng rất vui vẻ thân tình, mời uống nước trà, rồi ngồi
đàm đạo. Ông bảo: Hiện nay trên đài báo rồi cả trên văn bản nhà nước người ta
dùng khái niệm “Trẻ em hư” là sao? Như vậy chia học sinh ra một bên học sinh
“ngoan”, một bên học sinh “hư” à? Trong số trẻ “hư” có bao nhiêu loại? Không
nghiên cứu phân loại, tìm ra nguyên nhân dẫn trẻ đến hành vi bất thường thì sao
giáo dục, trị liệu được?
Thầy Phạm Hoàng Gia trình bày cách phân loại học
sinh có hành vi bất thường của Liên Xô, của Pháp. Bộ trưởng đặt ra một loạt câu
hỏi, rồi bảo, như vậy một mặt phải đưa người đi đào tạo gấp các chuyên ngành
này, một mặt mình có sức đến đâu, cứ nghiên cứu ngay đi.
Sau đó Bộ trưởng cho cử một loạt cán bộ đi Liên Xô đào tạo về các ngành giáo dục
trẻ có vấn đề bất thường: Trẻ rối nhiễu hành vi, tâm lý học đường, giáo dục trẻ
Câm điếc, khiếm thị. Sau này Viện có Ban nghiên cứu giáo dục trẻ khuyết tật.
Sau buổi gặp Bộ trưởng, tôi về nghiên cứu đề
tài “Nguyên nhân dẫn đến trẻ em hư”. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện rất thích thú đề
tài này và lấy kết quả in trong tập “Nghiên cứu trẻ em” của Trung tâm NT.
Nhân đây kể lại một chuyện buồn cười: Tối hôm
đó, Bí thư đảng uỷ Viện Nguyễn Hữu Tưởng gọi anh Nguyễn Văn Lê và tôi lên Văn
phòng Đảng uỷ viện. Bí thư nghiêm mặt bảo, 2 đồng chí có biết 2 bài viết của
các đồng chí đăng trên Tạp chí Giáo dục, có vấn đề không?
Cả hai đều ngỡ ngàng hỏi, có vấn đề gì?
Bí thư mở cuốn Tạp chí ra, bài của đồng chí Lê
viết “Cần nghiên cứu Thị trường lao động”… Đó là của tư bản, đồng chí còn trích
dẫn cả tài liệu của Pháp, Mỹ… Ta chỉ có đào tạo, bố trí, sử dụng lao động tối
ưu hoá… Đồng chí cần rút kinh nghiệm, xác định lại quan điểm nghiên cứu.
Đồng chí Trang, bài viết “Nguyên nhân dẫn đến
trẻ em hư” có nhiều số liệu, điều tra thực tế công phu, phân tích tốt. Nhưng
câu kết, đồng chí viết “tình trạng gia tăng trẻ em hư vì có nhiều người lớn hư”
thì rất nguy hiểm. Đó là nhận định mang tính chính trị. Đồng chí còn trẻ, có
nhiệt tình, nhưng phải rất thận trọng trong phát ngôn, viết lách…
Giờ nghĩ lại, thật buồn cười! Mà cái tính
“nghĩ sao nói vậy, viết vậy” của mình vẫn thế, đến già không sửa được!
Thời Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình cũng rất hay.
Lên Bộ trưởng, việc đầu tiên bà đến thăm Viện KHGD và nói, tôi quen làm Ngoại
giao, nay được giao nhiệm vụ phụ trách Giáo dục. Về lĩnh vực này tôi chưa có hiểu
biết gì nhiều, nên phải dựa vào Viện, rất mong các đồng chí hợp tác, giúp đỡ Bộ.
Sau đó bà điều Viện trưởng Phạm Minh Hạc lên làm Thứ trưởng Giáo dục.
Thời Bà Bình, Viện góp phần đắc lực, chuyển hệ
thống giáo dục miền Bắc hoà nhập với miền Nam thành hệ thống 12 năm và ra được
bộ Sách giáo khoa chung cả nước từ lớp Một đến lớp 12. Đề tài nghiên cứu Giáo dục
Gia đình; Giáo dục Hướng nghiệp; Giáo dục giới tính (Sau chuyển thành Giáo dục
sức khỏe sinh sản Vị thành niên); đề tài Vị thành niên phạm pháp được Viện
nghiên cơ bản, viết sách và triển khai trong cả nước rất sâu rộng. Uy tín Viện
KHGD lan tỏa cả nước.
Không biết cái HOẠ từ đâu đến. Bắt đầu thời Bộ
trưởng Trần Hồng Quân, Bộ Giáo dục (phổ thông) nhập vào Bộ Đại học và cả Tổng cục
Dạy nghề thành Bộ GIÁO DỤC và ĐÀO TẠO, cái tên LẠ, không thấy trên thế giới! Rồi
nhập Viện Khoa học dạy nghề vào Viện Nghiên cứu Đại học và Chuyên nghiệp. Viện
KH Dạy nghề lúc đó có quan hệ hợp tác rất tốt với các Viện đào tạo nghề của
Liên Xô, CHDC Đức, Úc, Tiệp… và có mấy đề tài nghiên cứu rất hay, nhất là Thực
nghiệm mô hình “Trung học nghề” như của Đức, tức là hướng nghiệp học sinh hết
THCS vào học nghề 3 năm, tốt nghiệp ra vừa có nghề, vừa có bằng THPT, có thể đi
làm nghề hoặc thi vào Đại học. Một mô hình tuyệt vời. Vậy mà tất cả bị xóa đi!
Vì GS Phạm Minh Đường, TS Đặng Danh Ánh, 2 lãnh đạo Viện say mê hết mình cho
Khoa học dạy nghề, bỗng đưa đi làm việc khác và đội ngũ cán bộ điều chuyển tứ
tung, chả ai yên tâm mà nghiên cứu nữa!
Mấy năm sau, Tổng cục Dạy nghề lại tái lập, Viện
Khoa học Dạy nghề lại thành lập; đúng là xoá đi, làm lại từ đầu!
Rồi mấy đời Bộ trưởng sau, cứ ông nào lên, việc
đầu tiên là “sắp xếp lại” tổ chức của Viện KHGD. Thời Bộ trưởng Nguyễn Thiện
Nhân, đưa hết cán bộ nghiên cứu KHOA HỌC CƠ BẢN Tâm lý học, Giáo dục học, Trẻ
khuyết tật về các trường Đại học Sư phạm, mỗi trường lại đẻ ra Viện Nghiên cứu
giáo dục. Cán bộ mạnh ai nấy chạy tìm chỗ dễ sống hơn, tan đàn xẻ nghé! Rồi nhập
tất cả các Viện nghiên cứu Đại học, giáo dục chuyên nghiệp với Viện KHGD, gọi
là Viện CHIẾN LƯỢC và CHƯƠNG TRÌNH GD! Láo thế! Từ đó Bộ Giáo dục chỉ còn chỉ
huy “Sự nghiệp giáo dục” bằng KHẨU HIỆU, cóc cần gì KHOA HỌC nữa! Hết phong
trào “Hai không” đến “Ba không”, “Thầy giáo là tấm gương đạo đức, tự học”… Giáo
dục thì phải “Từ không đến có diễn ra thế nào?”, chứ ai lại “giáo dục ba
không”?
Đến đời Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, các cán bộ
giáo dục Lão thành và anh chị em đấu tranh gay gắt, Viện lại được “trả lại tên
cho em” là Viện KHGDVN, nhưng ruột thì rỗng, tái lập Ban Tâm lý học, Giáo dục học,
GD Trẻ khuyết tật… Nhưng toàn người trẻ, chuyên gia còn có mấy ai?
Chưa xong, Viện trưởng, Viện Phó không phải những
người trưởng thành từ Viện, hiểu công việc, mà được Bộ trưởng đưa từ đâu về, chả
hiểu về Tâm lý học, Giáo dục học, Lý luận dạy học… Viện thành ra cơ sở chạy các
DỰ ÁN và là CÁNH TAY NỐI DÀI của Bộ! Cán bộ của Viện chạy như cờ lông công, họp
hành suốt ngày, chả đứa nào “ngồi nóng đít” để nghiên cứu! Sắp họp Quốc hội, Bộ
trưởng gửi xuống mấy chục câu hỏi chuẩn bị trả lời trước QH, cả Viện ngày đêm
“chổng mông lên” lo viết bài trả lời mẫu cho BT!
Đề tài nghiên cứu hầu hết là những vấn đề sự vụ,
“mì ăn liền”, đáng lẽ các VỤ giải quyết, chuyển thành Đề tài nghiên cứu của Viện,
trong đó các cán bộ Vụ lại là thành viên nghiên cứu quan trọng. (Có vậy giải
ngân và nghiệm thu mới “ngon”. Nghiệm thu xong đút ngăn kéo!).
Cần gì KHOA HỌC! BT là “Tư lệnh ngành”, chỉ
huy “Những trận đánh lớn”, các giáo viên là “Chiến sĩ xông trận”, làm sao “đồng
loạt ra quân và chiến sĩ không quay súng về phía Tư lệnh ngành” là ok!
Ông BT như thế mà đến giữa Viện KHGD ba hoa, bảo,
anh Nhân, rồi tôi bận quá, không thì trực tiếp kiêm Viện Trưởng, chỉ đạo nghiên
cứu rồi. Nói vậy chứng tỏ các ông chẳng hiểu chút gì về Khoa học giáo dục! Người
hiểu biết như Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Thị Bình không ai dám nói liều
như vậy!
Chính sau khi ông BT nói câu ấy, tôi đã đưa
cho ông bài viết “Mấy suy nghĩ tản mạn về giáo dục” và tôi không nói lời nào nữa.
Trong bài đó có 14 mục. Đây là mục 14, nói về Viện.
“14. Nghiên cứu khoa học GD rất khó, vì khoa học
về con người, phát triển thế hệ trẻ của dân tộc đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Nó đòi hỏi vừa nghiên cứu cơ bản, vừa thực
nghiệm, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của ta, vừa cập nhật các thành tựu mới của
thiên hạ; nghiên cứu từ những vấn đề chung nhất như Triết học GD, Xã hội học
GD, Kinh tế học GD, khoa học Quản lý GD, khoa học Phát triển Chương trình, nội
dung GD cho đến những vấn đề vi mô như đo nghiệm IQ, EQ, SQ của học sinh; quy
luật nhận thức, tư duy, trí nhớ, nhu cầu, tình cảm đến tâm vận động và hình
thành thao tác ở trẻ…; rồi chẩn đoán, trị liệu cho trẻ rối nhiễu tâm thần, trẻ
tự kỷ, trẻ câm, mù, điếc.
Để có chuyên gia về mỗi lĩnh vực dù “vĩ mô”
hay “vi mô” phải có người chuyên tâm nghiên cứu, thực nghiệm, phổ biến khoa học,
tổng kết chừng 15 – 20 năm. Họ cần có lương đủ sống (không phải ngó nghiêng, nhấp
nhổm kiếm ăn); chuyên tâm theo đuổi chuyên ngành khoa học tương đối ổn định,
lâu dài; môi trường làm việc thuận lợi; điều kiện vật chất, tài chính đảm bảo tối
thiểu cho hoạt động. Cách quản lý khoa học luôn “tái cấu trúc” theo nhiệm kỳ quản
lý đã gây bao xáo trộn, bất an, khiến đội ngũ hẫng hụt, phân tán, thiếu đồng bộ,
kém hiệu quả. Phải có một tầm nhìn mới, cách quản lý mới, mới tạo ra sự phát
triển mới cho khoa học GD nước nhà”.
Chả biết về ông BT có đọc bài viết của tôi
không và đọc có hiểu gì không!? Nhưng sau đó thấy ông trả lời “Triết lý giáo dục
là Nghị quyết của Đảng”… rồi thanh minh thanh nga: 70.000 tỉ đồng làm Chương
trình Sách giáo khoa là “anh em mới khái tính, rồi lúc báo cáo bị “khớp”… Còn
ông BT sau thì chả có gì để nói!
Giáo dục phải kế thừa. Quản lý phải hiểu hệ thống
và công việc, giữ cho hệ thống ổn định, vận hành trơn tru; trục trặc đâu thì điều
chỉnh đó một cách khoa học để hệ thống trở lại ổn định, vận hành tối ưu và đem
lại kết quả có thể kiểm soát.
Thời BT Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu
cũng lắm Nghị quyết, chỉ thị, nhiều sức ép từ Bộ Chính trị, từ tuyên giáo.
Nhưng các ông có bản lĩnh, biết đâu là những điều nhảm nhí, khiến các tác động
đó không làm rối nhiễu hệ thống và kiên quyết bảo vệ sự vận hành của giáo dục
đúng với bản chất của nó.
Một ví dụ, năm 1962 tôi làm Hiệu trưởng trường
Cấp 2, đi họp Hiệu trưởng các trường, do Trưởng Ty (Giám đốc) giáo dục tỉnh Hải
Dương triệu tập. Ông Trưởng Ty bảo, họp Bộ kỳ này vui lắm, họp xong anh em trêu
BT (Huyên): Miệng thì lẩm nhẩm Phương châm/ Đầu đội Nguyên lý, Tay cầm Mục
tiêu/ Ra về lo lắng trăm chiều/ Ý nói hè này, các Ty giáo dục về phải chỉnh huấn
giáo viên quán triệt Nguyên lý, Mục tiêu, Phương châm giáo dục, vất vả lắm đây!
Nhưng BT Huyên nói, học gì thì học, chỉ 15 ngày thôi, còn để giáo viên nghỉ hè.
Người giáo viên chọn nghề này, yêu nghề này là vì được 3 tháng NGHỈ HÈ và là
nghề TỰ DO, dù cho lương có thấp hơn nhiều ngành khác! Người BT hiểu và trân trọng
nghề nghiệp của giáo viên như vậy đó.
3. Thưa các bạn trẻ!
Nếu các bạn muốn ở Viện nghiên cứu để trở
thành chuyên gia, Nhà này, nhà nọ thì phải:
– Chọn một lĩnh vực mình yêu thích và có năng
lực để theo đuổi, như tiền nhân nói “Nếu có hai cuộc đời, tôi vẫn tiếp tục công
việc này”!
– Muốn vậy phải luôn say sưa bám chắc ĐỐI TƯỢNG
khoa học, dù làm đề tài gì cũng là cụ thể hoá đối tượng, đi sâu vào bản chất của
đối tượng, tích luỹ lý luận và sự kiện thực tế, thực nghiệm để hiểu sâu sắc về
đối tượng… Buông bỏ đối tượng, chạy theo các vụ việc linh tinh thì suốt đời chỉ
làm tay sai, điếu đóm thôi.
– Đồng thời các bạn phải hội nhập lĩnh vực
mình nghiên cứu vào dòng chảy của văn minh nhân loại; phải mạnh dạn viết bài,
tham gia các hội thảo chuyên sâu, tham gia là thành viên của các tổ chức khoa học
quốc tế, rồi giao lưu, thỉnh giảng ở các trưởng/viện nước tiên tiến. Muốn vậy
các bạn phải giỏi ngoại ngữ và dũng cảm, bền bỉ dấn thân vào lĩnh vực chuyên
môn (Đừng lăng xăng và hèn mọn như thế hệ chúng tôi!).
– Tất nhiên, đời sống, cách quản lý, môi trường
làm khoa học hiện nay… quá tồi tệ. Nhưng nhiều nhà khoa học đã trưởng thành từ
hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, nếu họ có lòng say mê bền bỉ theo đuổi đối tượng đến
cùng.
Lão già hèn mọn, kiếp này làm chẳng ra gì! Nếu
có kiếp sau lại mong được nghiên cứu Tâm lý học giáo dục để làm lại từ đầu!
_____
Chú thích:
Ảnh 1: https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/12/A1.jpg
Từ trái qua, các nhà Tâm lý học: Phạm Huy Thu
(đã mất), Nghiêm Thị Phiến, Mạc văn Trang, Nguyễn Hải Khoát (mất), Phạm Hoàng
Gia (mất),Đặng Xuân Hoài (mất), Phạm Nguyệt Lãng, Ngô Đặng Minh Hằng, Phạm Hưng
Trinh xem sản phẩm cuối năm (1972);
Ảnh 2: https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/12/A2-1024x823.jpg
Các cụ Ban Tâm lý học đã về hưu, hàng đầu, từ
trái qua: Nguyễn Thế Trường, Nguyễn Thị Phúc, Đỗ Thị Xuân, Phạm Tất Dong, Phạm
Huy Thụ, Lê Đức Phúc; hàng sau: Ôn Vi Sơn, Phạm hưng Trinh, …?, …?, Vũ Thị Nho,
Phạm Nguyệt Lãng, Mạc Văn Trang, Ngô Đặng Minh Hằng.
No comments:
Post a Comment