9/06/2020 4
Comments
https://danlambaovn.blogspot.com/2020/09/ve-ngoai.html
Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà,
khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời
mạt vận. NgyThanh
***
Thông tín viên Võ
Thành Nhân (SBTN) vừa buồn bã loan tin: nhà báo Lê Văn Phúc đã từ
trần vào hôm 7 tháng 8 năm 2020, tại Reston – Virginia. Tác phẩm (Tôi
Làm Tôi Mất Nước) đầu tay của ông do Văn Hữu xuất bản năm 1985, và
Thế Giới Ấn Quán tái bản – lần thứ 5 – vào năm 1989. Với thị trường
sách báo hải ngoại thì đây là một hiện tượng hiếm hoi.
Lê Văn Phúc được nhiều
người tìm đọc vì không ít độc giả đã cùng chia sẻ với ông cái tâm
cảm, hay mặc cảm (mất nước) bàng bạc trong cộng đồng người Việt tị
nạn cộng sản từ nhiều thập niên qua. Gần đây, tác giả Thụy Khuê vừa
gửi đến mọi người một cách tư duy khác, mới mẻ và khoáng đạt hơn,
qua tập bút ký (Quê
Hương Ngày Trở Lại) xuất bản vào tháng 6 năm 2019:
“Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt
phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than ‘mất nước’. Kêu như thế là chưa hiểu
gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch
sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta
phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu.
Sinh con, ta tưởng nó là của ta, nhưng không, con ta
là của nó. Duy chỉ có đứng trên đất nước, chỗ nào, ta cũng cảm thấy đó là của
mình, đất nước là cái sở hữu duy nhất mà con người có được. Đi du lịch, biết
bao nhiêu cảnh đẹp thế gian bầy ra trước mắt, nhưng cảnh đó không phải của ta,
nó là của người Tầu, của người Pháp, của người Nhật... chỉ có nước Việt là của
ta, của mình, miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được
thua...
Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ.
Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất
nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm
hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.”
Nỗi lòng “anh nhiên tự
tại” của một vị nữ sỹ (e) khó có thể được chia sẻ bởi tất cả mọi
người, nhất là những kẻ đang lâm vào bước đường cùng trong kiếp tha
hương. Lịch sử của một triều đại, hay một chế độ, có thể kéo cả
hàng thế kỷ mà kiếp người thì chỉ tính bằng năm. Không ít những
mảnh đời tuy rất ngắn ngủi nhưng đã bị bầm dập đến te tua thì quê
cha, hay đất tổ, chỉ là một khái niệm rất mơ hồ và vô cùng mù mịt.
Xin ghi lại một:
“Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Đám tang của Yến
diễn ra trong một ngày mùa đông buồn thảm. Cái buồn thảm không giống những nỗi
buồn tôi từng chứng kiến trong các đám tang khác khi còn ở Việt Nam.
Lần cuối cùng người ta thấy Yến đi với một gã người
Campuchia khoảng một tuần trước. Khách đã thỏa thuận và chi tiền trước với chủ
chứa để ‘bao’ Yến trong hai ngày. Nhưng ba, rồi bốn ngày vẫn không thấy Yến về.
Linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra với cô nên
hai người chị kết nghĩa là Hương và Trầm bỏ tiền nhờ người đi tìm. Để có thêm
tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải ‘làm thêm’, tức là tiếp
khách nhiều hơn ngày thường.
Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn
nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô
Păng. Vì chủ chứa – một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không
cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm
cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài. Đám tang lèo tèo vài ba
người hàng xóm thất nghiệp trong đó có tôi, ngồi dự cho đỡ tủi. Yến có thằng
con trai lên bốn tuổi, tên là Hên. Thấy mẹ chết, nó gào khóc, tiếng khóc tôi
chưa từng nghe thấy bao giờ:
- Ụ má mày, mày xí gạt tao. Mày hứa đưa tao về quại
mà mày hổng đưa. Mày bỏ tao mày đi. Choi me hặn…hặn tau na… cùm ngợp. (Đù má
mày…mày đi đâu… đừng chết.)… Dậy đưa tao về quại!” (Phạm Thanh Nghiên. Chuyện
Kể Của Chồng) .
Bà Yến từ trần vào
năm 1993 khi Hên mới vừa lên 4. Tính đến năm nay thì cậu bé này đã
trở thành một thanh niên ở tuổi ba mươi. Tôi băn khoăn tự hỏi: chả
hiểu người người đồng hương trẻ tuổi của mình, nếu vẫn còn sống
sót, có còn muốn về quê ngoại? Và “lỡ” muốn thì đường về liệu có
còn lối hay không?
Báo
Công An Nhân Dân vừa, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2020, vừa đăng tải
một bản tin (ngắn ngủi) đọc mà muốn nát lòng:
“Lúc 6h30’ cùng ngày, Tổ công tác của Trạm kiểm soát
thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phối hợp với Chi cục Hải Quan
Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phát hiện hàng chục đối tượng (gồm người lớn và trẻ
em), di chuyển từ phía Campuchia qua tuyến biên giới tỉnh An Giang, trên 8 thuyền
máy.
Tổ công tác tiến hành dừng phương tiện, dẫn giải người,
phương tiện về Trạm kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế xác minh, điều tra,
làm rõ.
Qua lấy lời khai, được biết có 7 hộ gia đình với 41
khẩu (20 người lớn, 21 trẻ em) sống tại tỉnh Siem Reap và tỉnh Pur Sát
(Campuchia). Do hoàn cảnh sống khó khăn nên có ý định trốn về Việt Nam sinh sống
tại tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh. Tất cả đều không có giấy tờ hợp pháp, không có
giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.
Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương đã tiến
hành lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xuất, nhập cảnh trái
phép bằng hình thức cảnh cáo đối với 14 đối tượng là chủ hộ gia đình, cho làm
cam kết không tái phạm.”
Hoá ra đất nước chỉ
“miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua...”, nếu
kẻ tha hương vẫn có một nơi anh lành (nào khác) để tạm cư và có thể
về thăm chơi – đôi ngày – bất cứ lúc nào với passport cùng một mớ
ngoại tệ bên mình. Chứ với những kẻ lâm vào bước đường cùng (không
có một đồng xu dính túi) thì đất nước và quê hương không có chỗ
dành cho họ.
Mất nước – rõ ràng –
là thực tại phũ phàng đối với nhiều người, chứ chả phải là chuyện
nói theo giọng cường điệu hay nói cho vui miệng thôi đâu.
No comments:
Post a Comment