Đường
biên giới Việt-Trung khu vực Nam Quan theo công ước Pháp-Thanh 1887 (Phần 1)
Trương
Nhân Tuấn
16/08/2020
Đường biên giới đoạn từ
Nam Quan đến Bình Nhi, được mô tả theo biên bản phân định biên giới Pháp-Thanh
ngày 7-4-1886 như sau:
” …từ một điểm được xác định
cách cổng Nam Quan 100 thước trên đường từ Nam Quan về Ðồng Ðăng (cột số 18),
đường biên giới theo hướng Tây, đi lên đỉnh ngọn núi đá mà trên đó có một đồn
binh được đánh dấu là điểm A ở trên sơ đồ kèm theo đây. Đường biên giới, từ điểm
này, theo đường sống núi của bức tường núi đá nhìn xuống con đường Ðồng Ðăng,
cho đến điểm B đánh dấu trên sơ đồ (cột số 17). Ðiểm B là điểm mà con đường mòn
– đường mòn này là một nhánh rẽ của con đường Ðồng Ðăng đi Nam Quan – dẫn đến
làng Lũng Nghiêu (Lũng Ngọ 隴午,
còn viết là Lộng 弄) cắt bức tường núi đá.
Ðường biên giới theo con đường mòn cho đến cổng làng Lũng Nghiêu. Từ cổng, đường
biên giới đi lên ngọn rặng núi đá bọc chung quanh làng Lũng Nghiêu để đi đến điểm
C (cột số 16). Từ điểm C, đường biên giới đi về hướng Tây cho đến cửa Ki Da
(trên bản đồ ghi Khua-Da, có lẽ là Cửa Du, tức ải Du).
…từ cửa Ki Da (cửa Du),
đường biên giới đi về hướng tây bắc, qua đỉnh núi được đánh dấu là D, cho đến cửa
ải Bố Sa (cột số 15) và cửa ải Hong-Meun (đối diện với của Bố Sa). Các bản,
làng Na-Lau, Na-Han, Na-Choc và Na-Ngoa thuộc về Bắc Kỳ. Từ cửa Bố Sa, đường
biên giới đi về hướng Bắc, theo đỉnh các ngọn núi cao, cho đến điểm E ghi trên
bản đồ, và từ điểm E cho đến hai đồn binh (Hy Tự Tiền Dinh và Hy Tự Tiền Dinh
Pháo Ðài) của Tàu đánh dấu là F (cột mốc 14) và G (cột mốc 13). Từ điểm G, đường
biên giới nghiêng về hướng Tây Bắc cho đến một đồn binh của Tàu bỏ hoang đánh dấu
là H, từ điểm này đến cửa ải Sơn Tự 山寺, (cột số 12) và theo hướng Bắc cho đến đồn binh Kéo-Cho được đánh dấu
là I (Sơn Tự Ngoại Sách, cột số 11) và đồn này thuộc Trung Hoa.
… đường biên giới tiếp tục
đi về hướng Bắc cho đến ải Thượng Dương 上楊 ; từ cửa Thượng Dương đường biên giới theo hướng Tây Bắc, đi qua cửa ải
Bản Quyên, đến điểm đánh dấu J. Từ điểm J đường biên giới theo hướng Ðông Bắc
cho đến một đồn binh bỏ hoang được đánh dấu K. Từ đây đường biên giới xuống
sông Kì Cùng sau khi qua đồn binh đánh dấu L. Ðường biên giới đến sông tại điểm
đánh dấu M và từ điểm này theo sông cho đến khúc ngoặc được đánh dấu N”.
….
Có tất cả 18 cột mốc được
cắm trên đoạn biên giới này. Vị trí cột mốc được mô tả theo biên bản 21-4-1891
(công trình Frandin). Tên và số thứ tự cột mốc được xác định theo biên bản
19-6-1894 (công trình Galliéni) như sau :
Cột thứ 18, Trấn Nam Quan
ngoại: Trên đường Nam Quan về Ðồng Ðăng (cách cửa 100 thước về hướng Nam)
Cột thứ 17, Khiêu Giá
Sơn: Cắm trên đèo nhỏ cắt đường sống núi, trên con đường mòn đến Lũng Nghiêu.
Đường mòn này tẻ ra từ con đường Ðồng Ðăng – Nam Quan.
Cột thứ 16, Lộng Diêu Ngoại
Sách: Cách làng Lộng Diêu 250 thước về hướng Tây, trên đường mòn đi đến Khua
Da.
Cột thứ 15, Bố Sa ngoại
sách: cắm tại cửa ải Bố Sa.
Cột thứ 14, Nã Thốt Lĩnh:
cắm trên đỉnh núi, cách làng Na-Thot 500 thước về hướng đông nam.
Cột thứ 13, Lục Lê Lĩnh:
cắm về phía tây, cách công sự Hi Tự Tiền Dinh Pháo Ðài 100m.
Cột thứ 12, Sơn Tử ngoại
sách: cắm tại cửa ả Sơn Tử.
Cột thứ 11, Na Phiêu
Lĩnh: cắm về phía đông nam, cách 400m cửa làng Na-Phéo.
Cột thứ 10, Ba Khẩu ngoại
sách: cắm về phía tây, cách 150 m công sự Kéo-Chu.
Cột thứ 9, Lăng Thôn ngoại
sách: Tại cửa Thuong-Dong.
Cột thứ 8, Ba Mễ ngoại sách.
Cột thứ 7, Quyên Thôn ngoại
sách: Tại cửa ải Quyên Thôn.
Cột thứ 6, Phần Quan
Lĩnh: Cách 200 thước về phía đông bắc của hợp lưu suối Ban-Quyen và con suối có
hướng chảy bắc nam (Phan Quan Linh 6).
Cột thứ 5, Cang Anh ngoại
sách: cắm tại một cửa ải cũ, ở cách 500 thước điểm cao (côté 345).
Cột thứ 4, Cổn Ma Lĩnh: Cắm
về phía đông của thung lũng Na-Dong, gần con đường đi từ Luc-Bac đến Tra-Kieu.
Cột thứ 3, Bình Công ngoại
sách: Cắm trên một ngọn đồi cách 250 thước về phía đông bắc của điểm cao (côté
294).
Cột thứ 2, giác Hoài
Lĩnh: Cắm tại một cái đèo rất thấp, cách 1000 thước về phía Nam của công sự
Na-Ho. (Co-Wai 2)
Cột thứ 1, Bách Tặng
Lĩnh: Trên một ngọn đồi nhìn xuống sông Kì Cùng, cách sông 150 thước.
(trích từ sách Biên giới
Việt Trung 1885-2000 – Lịch sử thành hình và những tranh chấp của tác giả
Trương Nhân Tuấn).
No comments:
Post a Comment