TK
Tran
Tác giả gửi tới Dân Luận
06/08/2020
Đầu tháng 7 vừa qua một
thông báo cho biết 1 nghiệp đoàn độc lập nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân ra
đời (1)(2). Chưa ai biết rõ những người cầm đầu là ai, thực chất của nghiệp
đoàn này ra sao, song sự kiện này có lẽ sẽ mở đầu cho sự xuất hiện 1 loạt nghiệp
đoàn độc lập khác, nằm trong khuôn khổ thỏa thuận của nhà nước VN với EU trong
hiệp ước thương mại EVFTA(3).
Quan điểm của nhà nước VN
đối với việc thành lập những Hội Đoàn tương tự như thế nào? VN chưa ban hành
chính thức luật Hội. Từ năm 2006 khi dự thảo đầu tiên được „trình làng“, luật Hội
được sửa chữa tới, sửa chữa lui, tới nay hơn chục lần, nhưng nhà nước vẫn chưa
hài lòng.Tháng 10 năm 2016, chính phủ lại đề nghị Quốc Hội lui việc bàn thảo và
chuẩn y luật Hội. Từ đó tới nay dự thảo vẫn chưa được sửa đổi hoặc bàn thảo lại.
Bài này kiểm điểm lại cái
nhìn của nhà nước với Hội qua dự thảo luật cuối cùng để đánh giá cơ may của sự
thành lập các nghiệp đoàn độc lập thực sự.
Dự thảo luật Hội,
phiên bản 27.10.2016(4)
1.- Nguyên tắc quan trọng nhất của nhà nước là phải
nắm chắc sự kiểm soát các Hội Đoàn:
Điều 7 Chương 1 viết rằng
„nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền lập Hội của công dân VN“, song
không quên kèm thêm điều kiện „phải theo đúng qui định của Hiến pháp“, có nghĩa
là phải công nhận sự lãnh đạo của đảng CS. Quan trọng hơn, cần lưu tâm nhiều
hơn là điều 4 dự thảo Hội: „Hội….góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước…“. Có nghĩa là nhà nước không buông lỏng sự kiểm
soát Hội Đoàn.
2.-Các phương thức của nhà nước để kiểm soát Hội
Đoàn:
Rào
cản hành chính: Giấy chứng nhận đăng ký, giấy công nhận điều lệ Hội, giấy công
nhận người đứng đầu Hội
Không như ở các nước dân
chủ, nơi mà nhà nước chỉ cần được thông báo về việc thành lập Hội, ở VN Hội
Đoàn muốn được hoạt động thì trước hết phải được nhà nước cho phép thông qua việc
cấp „Giấy chứng nhận đăng ký thành lập“, việc „công nhận điều lệ và người đứng
đầu Hội“ (điều 4, điều 5). Không có những giấy phép này thì không được hoạt động.
Loại
bỏ cá nhân sáng lập Hội đang nằm trong „tầm nhắm“ của nhà nước:
Điều 8 viết rằng những
người bị kết án tù có thời hạn không được thành lập Hội. Không những thế, ngay
cả những người „đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự“, có nghĩa là mới bị lên
án, chưa có án chính thức, trên nguyên tắc còn vô tội cũng bị cấm thành lập Hội.
Điều này cản trở việc lập Hội của những nhà hoạt động dân chủ đã 1 lần bị bắt
hay đang bị nhà nước xét xử.
Điều 10 ấn định rằng tối
thiểu phải có ít nhất là 7 người „sáng lập viên là người… có sức khỏe và uy
tín…“. Thế nào là có sức khỏe? Liệu những bệnh phổ thông như cao huyết áp, nhiều
mỡ trong máu có là trở ngại cho việc thành lập Hội? Thế nào là „uy tín“? Uy tín
là là khái niệm rất trừu tượng và sẽ được định nghĩa theo cách nhìn có lợi cho
vị thế của nhà nước. Người „vô danh tiểu tốt“ không được thành lập Hội? Làm sao
để ấn định rằng người này có uy tín, người kia không có đủ uy tín? Và phải có
ít nhất là 7 người có „uy tín“. Nhà nước có thể dựa vào những tiêu chí cực kỳ
trừu tượng như trên để cấm đoán cá nhân A,B,C… nào đó có quyền lập hội.
Nhà
nước giám sát và can thiệp vào hoạt động của Hội như thế nào?
Điều 14 qui định là trong
thời hạn 30 ngày sau khi thành lập Hội, ban lãnh đạo Hội phải báo cáo và đề nghị
cơ quan nhà nước công nhận điều lệ Hội và người đứng đầu Hội. Chỉ khi nào cơ
quan nhà nước ra quyết định công nhận thì Hội mới được hoạt động
Điều 18 đòi hỏi là khi tổ
chức đại hội Hội để bàn về các vấn đề nội bộ, ban lãnh đạo Hội phải báo cáo cho
nhà nước về nội dung bàn thảo, chậm nhất là 30 ngày trước đại hội. Nếu nhà nước
không chấp nhận nội dung bàn thảo thì không được tổ chức đại hội. Sau khi kết
thúc đại hội, ban lãnh đạo Hội phải báo cáo kết quả đại hội và nhà nước quyết định
công nhận hay không. Nếu Hội tổ chức họp đại hội trước khi được cho phép, hay
báo cáo kết quả đại hội không đúng kỳ hạn thì sẽ bị đình chỉ hoạt động 6 tháng
(điều 25). Thêm nữa, các điều khoản về sự chấp thuận hay không những báo cáo
này cũng mơ hồ, để ngỏ cửa cho sự tùy tiện của quan chức cho phép.
Điều 20 nhắc lại là người
đứng đầu Hội phải có hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ, có uy tín trong lãnh vực
hoạt động và có sức khỏe.
Điều 23 viết rằng nghĩa vụ
của Hội là hàng năm phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của Hội với cơ
quan nhà nước. Theo điều 17 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (5) các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tôn trọng quyền riêng tư của các Hội,
nhưng „các Hội phải chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra kiểm toán, thanh tra của
nhà nước“.
Điều 25 có nội dung về việc
giải tán, giải thể Hội. Hội bị giải thể khi làm phương hại tới chủ quyền, an
ninh quốc gia, lợi ích nhà nước…, tuyên truyền trái chính sách nhà nước, gây ảnh
hưởng xấu đến hình ảnh của đất nước, danh nhân, anh hùng dân tộc. Các cơ quan
nhà nước cấp giấy phép hoạt động đồng thời cũng là cơ quan có quyền tước giấy
phép, giải tán Hội.
Viện cớ „làm phương hại tới
an ninh quốc gia“ nhà nước có thể cấm đoán Hội Đoàn. Tuy nhiên cần biết là theo
„Nguyên tắc Johannesburg về An ninh quốc gia, tự do biểu đạt và tiếp cận thông
tin“ năm 1995 thì “, biện pháp hạn chế được biện minh dựa trên an ninh quốc gia
là không chính đáng nếu mục đích chân chính hoặc hiệu quả rõ ràng là để bảo vệ
lợi ích không liên quan đến an ninh quốc gia, bao gồm, ví dụ, để bảo vệ một
chính phủ thối nát hay tiếp tay cho hành vi sai trái“ (nguyên tắc 2, khoản
b)(6)
Điều 9 nghiêm cấm việc „
gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của danh nhân, anh hùng dân tộc“, nếu vi phạm sẽ
dẫn tới việc Hội bị giải tán (theo điều 25). Có nghĩa là nhà nước răn đe: việc
bêu xấu chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ bị nghiêm trị.
Nhà
nước loại bỏ „yếu tố nước ngoài“ trong việc thành lập Hội:
Nhà
nước hạn chế nguồn thu nhập tài chánh để giới hạn khả năng hoạt động Hội
Điều 16 qui định là hội
viên kể cả hội viên liên kết hay hội viên danh dự phải là người VN. Người nước
ngoài không được gia nhập.
Điều 22 viết về tài chính
của Hội: Hội chỉ được tiếp nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của cá nhân, tổ chức
trong nước. Nói rõ hơn ở điều 8: Hội không liên kết, gia nhập các hội
nước ngoài, không nhận
tài trợ nước ngoài.
Trong lãnh vực kinh tế
nhà nước ve vãn khắp nơi trên thế giới để xin tiền viện trợ hay quyến dụ ngoại
quốc đổ tiền vào VN đầu tư, song trong lãnh vực Hội tư nhân, nhà nước loại bỏ ảnh
hưởng nước ngoài, đồng thời cũng để làm giảm thiểu nội lực tài chánh bằng cách
qui định là các Hội Đoàn không được nhận hội viên là người nước ngoài, Hội bị
nghiêm cấm nhận tài trợ dù là hợp pháp từ nước ngoài. Trong khi đó, chuyên gia
LHQ khẳng định: khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính là một thành tố trọng
yếu của tự do hiệp hội.
Cũng trong lãnh vực tài
chính, dự luật không dự trù việc nâng đỡ tài chính qua việc giảm hay bãi bỏ thuế
khóa cho các Hội. Không những thế, Hội phải chứng minh có đủ tài sản bảo đảm hoạt
động của Hội (điều 11, mục c). Nhà nước chỉ hỗ trợ kinh phí khi „Hội thực hiện
nhiệm vụ do nhà nước giao“ (điều 7, mục 4). Ngược lại, một cách bất công, nhà nước
lại dùng tiền thuế của nhân dân đóng góp để nuôi các hội đoàn là cánh tay nối
dài của đảng CS. Chỉ riêng đoàn thanh niên CS cũng đã nuốt quãng 350 tỷ đồng
hàng năm.Tổng cộng ngân sách nhà nước hàng năm chi cho các đoàn thể của nhà nước
lên tới quãng 14000 tỷ đồng.
Dự
luật cho phép cài cắm người của Đảng và nhà nước vào các Hội tư nhân
Điều 8, khoản 3 viết:“
cán bộ công chức và những người đang làm việc trong lực lượng vũ trang chỉ được
sáng lập hội, đăng ký thành lập Hội, lãnh đạo, điều hành hoạt động Hội khi được
cơ quan có thẩm quyền phân công“.
Điều khoản này nói lên
không úp mở là nhà nước có khả năng PHÂN CÔNG người của nhà nước vào hoạt động
trong các chức vụ quan trọng của Hội.
3. Luật Hội: khúc xương gà trong cổ họng nhà nước
Nhả ra không được, mà nuốt
vào cũng không xong đang là tình trạng hiện nay của nhà nước đối với luật Hội.
Điều này giải thích tại sao, sau gần 20 năm sửa soạn qua hàng chục lần sửa đổi,
luật Hội vẫn chưa thể đem ra quốc hội để bàn bạc và chuẩn y, mặc dù sự quan tâm
của dư luận quần chúng đã lên tới mức kỷ lục với hàng chục triệu kết quả khi
tìm kiếm, so với những dự luật khác.
Một mặt nhà nước VN phải
làm cho ra luật Hội. Lập Hội là nhu cầu căn bản cấp bách của người dân mà một
nhà nước luôn mồm nói là „vì dân, do dân“ không thể tảng lờ mãi được. Luật Hội
là tiền đề cho việc thành lập các nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ hữu hiệu quyền
lợi của người lao động như đòi hỏi của hiệp định EVFTA mà nhà nước VN đã đồng ý
ký kết. Mặt khác nhà nước VN – trong cách nhìn của họ - không thể cho phép các
hội đoàn tự do hoạt động đe dọa sự tồn tại của chế độ.
4.Trong chiều hướng nào luật Hội mới có thể ra đời?
Theo chiều hướng
„thoáng“, cởi mở như trào lưu hội nhập thế giới đòi hỏi hay theo chiều hướng
ngược lại: thắt chặt để củng cố bảo vệ chế độ?
So sánh dự luật mới nhất 27.10.2016 với Nghị định
45/2010 hay dự luật 25.09.2015
Nếu Nghị định 45/2010 (NĐ
2010) hay dự luật 25.09.2015 (2015) không đề cập tới vai trò của Đảng CS thì dự
luật 27.10.2016 ghi rõ: Hội là tổ chức… góp phần thực hiện chủ trương của Đảng
(điều 4).
Nếu dự luật 2015 không dự
trù việc cài cắm người của nhà nước vào các Hội, thì dự luật 2016 có điều khoản
về việc nhà nước „phân công“ cán bộ nắm các chức vụ chủ chốt trong các Hội, vứt
bỏ nguyên tắc „tự chủ, tự quản“ của Hội.
Nếu NĐ 2010, dự luật 2015
cho phép Hội được nhận tài trợ từ trong và ngoài nước, Hội được gia nhập các tổ
chức quốc tế (điều 24, 29), thì dự luật 2016 gạch bỏ những điều khoản này: cấm
liên kết, gia nhập các hội nước ngoài, không nhận tài trợ nước ngoài (điều 8).
Nếu NĐ 2010, dự luật 2015
cho phép „doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài“ có thể trở thành hội viên của Hội
(điều 15), thì dự luật cuối cùng buộc hội viên, dù là hội viên liên kết, phải
là người Việt Nam (điều 16)
Nếu dự luật 2015 không đề
cập tới điều kiện của người đứng đầu Hội, thì dự luật 2016 đòi hỏi người sáng lập
viên phải có đủ sức khỏe và có… „uy tín“, một khái niệm rất mơ hồ, co dãn tùy
ý.
Nói chung, so sánh Nghị định
45/2010 hay dự luật 25.09.2015 với dự luật mới nhất thì chiều hướng nhà nước nhắm
tới đi ngược tiến trình dân chủ, tăng cường sức ép, kiềm chế các hoạt động Hội.
Những thay đổi dự luật
nói trên cộng thêm nhiều điều khoản rào cản vẫn không làm hết hay giảm thiểu nỗi
lo ngại của nhà nước, nên họ vẫn không muốn đem dự luật ra biểu quyết thi hành.
Tại sao?
Câu trả lời sẽ là:
5. Quyền tự do lập Hội đi đôi với quyền tự do đi lại,
tự do họp hành, tự do ngôn luận, tự do thông tin
Những điều này có lẽ mới
là những điều „khó nghĩ“ cho một thể chế độc tài toàn trị.
Không nói tới những hội
không quan trọng cho chế độ như „Hội bảo vệ động vật hoang dã“, mà tính tới những
hội có tầm vóc, ví dụ như „Hội bảo vệ những công nhân làm giầy“ hay „Hội đoàn kết
dân tộc Kinh và Hmong“ chẳng hạn. Một khi chấp nhận Hội, thì phải chấp nhận cho
họp đại hội, có nghĩa là cho hàng ngàn hội viên tự do đi lại tới
đại hội, ngồi trong đại hội là tự do họp hành, phát biểu trong đại
hội là tự do ngôn luận, in ấn những phát biểu trong đại hội là tự
do báo chí, tự do thông tin về những vấn đề của người lao
động hay các vấn đề liên quan tới dân tộc thiểu số.
Nhà nước khó lòng kiểm
soát hết tất cả tầng lớp nhân dân trong hội đoàn, một khi hàng ngàn hội đoàn được
tự do nói lên những vấn đề khẩn trương của người dân trong những ngành khác
nhau. Nguy cơ lung lay chế độ là có thực. Có lẽ đó là nguyên do chính cho việc
trì hoãn việc ban hành luật Hội.
***
„Nghiệp đoàn độc lập“ được
thành lập không có giấy phép lập Hội của nhà nước. Cho tới nay còn quá sớm để
khẳng định rằng, đây là một hội đoàn thực sự độc lập, hay do chính nhà nước
phân công cán bộ của họ lập ra? (theo điều 8, khoản 3 của dự luật)
Dự luật Hội hiện nay của
Việt Nam cho thấy chủ đích của luật là nhằm kiểm soát, chi phối hoạt động của Hội
theo đường hướng đảng CS vạch ra, chứ không nhằm mục đích nâng đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tham gia các hoạt động lợi ích cho tập thể.
Đất nước cần một Luật về
Hội khác, có tính cách cởi mở hơn, tôn trọng quyền của người dân nhiều hơn. Chỉ
trong những điều kiện đó, những hội đoàn, trong đó có cả những nghiệp đoàn độc
lập thực sự, mới có cơ may công khai hoạt động hữu hiệu.
TKT
***
Nguồn:
(1)https://baotiengdan.com/2020/07/01/nghiep-doan-doc-lap-viet-nam-ra-doi/
(4) http://duthaoonline.quochoi.vn/Pages/dsduthao/chitietduthao.aspx?id=1110
No comments:
Post a Comment