Hồ
Chí Minh trong nhận thức của người hậu thế
Lê Quang Ngọ và Lê
Quí Trọng
23/08/2020
https://baotiengdan.com/2020/08/23/ho-chi-minh-trong-nhan-thuc-cua-nguoi-hau-the/
.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-65.jpg
Hồ Chí Minh và Mao
Trạch Đông nghỉ mát tắm biển Bắc Đới Hà (北戴河). Hình chụp tháng 8/1960. Nguồn: Artron.net
Hồ Chí Minh là một chính khách cộng sản nổi trội trong lịch sử đương đại
Việt Nam, tên tuổi của ông có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và tình cảm đa
dạng của nhiều thế hệ người dân nước Việt kể từ năm 1945 đến nay. Mặc dù tính đến
ngày 2/9 này ông đã qua đời 51 năm, nhưng ảnh hưởng chính trị của ông vẫn sống
mãi trong sự nghiệp của đảng CSVN. Do vậy, tên tuổi và hình bóng của ông vẫn
luôn luôn hiện hữu sáng chói trong cuộc sống của những người dân sống dưới sự
lãnh đạo của đảng do ông thành lập.
Năm 2020 này cái tên của ông còn được xuất hiện với tần suất cao hơn cả
mức bình thường, bởi những ngày lễ lớn năm nay của đất nước đều có liên quan đến
cái tên Hồ Chí Minh. Trong lễ kỷ niệm 130 năm ngày sinh của ông trong tháng Năm
vừa qua, tất cả những lời hoa mỹ nhất của ngôn từ tiếng Việt lại được sử dụng tối
đa để vinh danh ông: “Vị cha già của dân tộc, Lãnh tụ thiên tài, Người
thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn
hóa thế giới, Người chiến sĩ Cộng sản quốc tế mẫu mực, Người bạn thân thiết của
các dân tộc yêu chuộng hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới”. (1)
Lúc sinh thời Hồ Chí Minh từng nói,“ở đời, ai cũng là người thường,
không có ai là thần thánh, nghĩa là ‘nhân vô thập toàn‘, không có ai là hoàn
toàn. Đã sống ở đời thì ai cũng có khuyết điểm”. (2) Ông thường dạy
những người khác tránh vướng vào các khuyết điểm của người trần tục nhưng ông
cũng phải tự nhận bản thân có hai khuyết điểm lớn là hút thuốc lá và không lấy
vợ. Vì vậy những người viết bài này muốn tìm hiểu, ông thật sự có phải là con
người hoàn mỹ như được ca tụng không.
Qua việc lĩnh hội hàng loạt bài báo, những mẩu chuyện viết về ông, những
người viết bài này lại có những nhận thức trái ngược với sự kiên trì định hướng
dự luận của đảng. Đó là Hồ Chí Minh thật sự không phải là một thánh nhân như đảng
đã dày công tuyên truyền. Một người có học vấn bình thường, có tư duy độc lập
và miễn dịch với thông tin một chiều có thể dễ dàng nhận thấy ông là một con
người đầy mâu thuẫn, sự mâu thuẫn của ông thể hiện trong lý luận, giữa lý luận
và thực tiễn và cuộc đời ông là cả một bi kịch mà những người cuồng tín cũng
khó noi theo.
Trong bài viết này, chúng tôi xin phép được đề cập đến một số khía cạnh
mà ông được ca tụng như kể trên, và xin lấy cụm từ “thiên tài” làm cơ sở để xem
xét các tài năng thiên bẩm của ông. Vậy thiên tài là gì? Theo Wikipedia, thiên
tài là một danh từ dùng để nói về điều gì đó hoặc ai đó thông minh một cách xuất
sắc, làm việc một cách xuất sắc hoặc đạt được thành tựu vĩ đại. Thiên tài không
phải là người có đầu óc sáng tạo và thông minh bình thường. Chữ thiên tài thường
gắn liền với những thành tựu chưa từng thấy bao giờ. Thiên tài là một người có
năng khiếu, năng lực bẩm sinh hoặc có thành tựu vượt xa bất cứ những người nào
khác trong cùng một lĩnh vực.
Để tìm hiểu, bài viết này xin dẫn dắt người đọc vào thời kỳ Hồ Chí Minh
đã bước ra vũ đài chính trị đất nước sau khi cướp được chính quyền vào mùa thu
75 năm trước và trình diễn tài năng suốt 24 năm tròn.
Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, được ông trình bày trước toàn dân ông đã
trích dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để lên án thực dân Pháp đã vi phạm các
quyền căn bản ấy trong suốt thời gian đô hộ đất nước Việt Nam: “Về
chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào”, nhưng ngay sau đó không lâu “Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ
Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải
tán một số đảng phái,với lý do các đảng này tư thông với ngoại quốc, làm phương
hại đến nền độc lập Việt Nam (như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt
Quốc dân đảng…) nhằm kịp thời trừng trị bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền
non trẻ đồng thời giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác cho nhân dân, đồng thời
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những người bị coi là
nguy hiểm cho nền độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn để kiểm soát nền kinh tế”. (3)
Cũng dễ hiểu, cướp chính quyền là công của Việt Minh, thành quả đó
không thể chia xẻ cho những đảng phái ngồi mát muốn ăn bát vàng. Vì vậy trong
giai đoạn mới hình thành, để có tính chính danh, Hồ Chí Minh tạm thời đặt lợi
ích quốc gia lên hàng đầu với sự thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân
tộc bằng cách mở rộng các thành phần trong Chính phủ và Quốc hội nhưng những
người của các đảng phái khác “chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ
được tham dự bất cứ buổi họp nào của Nội các”. Là người cộng sản ông
hoàn toàn không muốn đa nguyên chính trị, vì vậy ông giao cho Võ Nguyên Giáp và
Trần Quốc Hoàn “nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt
Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt
hoạt động tuyên truyền của các đảng phái này trong dân chúng”.
Những đảng phái này cũng là những tổ chức của những người yêu nước
nhưng vì không cùng quan điểm chính trị cho nên không thể nào cạnh tranh trong
nghị trường được với đảng có thủ lĩnh là một ngưởi “được đào tạo chính quy về
chủ nghĩa Marx, tuyên truyền và khởi nghĩa vũ trang”. Mặc dù ông trả lời
các nhà báo nước ngoài sau kết quả cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam: “Trong
một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tin tưởng, tự do tổ chức. Nhưng vì
hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọi đảng phái”. (4)
Nói thì vậy nhưng không phải vậy, sự đứng ngoài của ông được
chứng minh khi ông đang thăm Pháp vào mùa hè năm 1946 thì “Võ Nguyên
Giáp bắt đầu chiến dịch trấn áp tất cả các đảng phái đối lập được Việt
Minh coi là nguy hiểm như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người
Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo… bằng lực lượng công an và quân đội
do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp.
Ông cũng sử dụng các sĩ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ
khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này”. Như vậy, bắt đầu từ đây Hồ
Chí Minh thật ra chỉ kiên trì đấu tranh vì độc lập, tự do độc quyền lãnh đạo đất
nước cho ông và đảng ông mà thôi.
Ông trả lời các nhà báo trong buổi phỏng vấn kể trên: “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc
lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Để đất nước hoàn toàn độc lập, cần có một chính phủ có đường lối độc
lập nhưng để giữ được chính quyền và chống được giặc Pháp ông đã cầu cạnh đến sự
giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, mặc dù ông đã từng “xem những đảng phái quốc
gia thân Trung Hoa Dân quốc như Việt Cách, Việt Quốc là
bọn quốc gia giả hiệu, đầy tớ của Trung Hoa Quốc dân Đảng và không có
liên hệ gì với nhân dân Việt Nam“.
Vào thời điểm từ năm 1945 – 1946, lập trường tư tưởng của Hồ Chí Minh
thật sự không vững vàng, ông muốn ngả theo Mỹ để ngăn cản Pháp quay trở lại chiếm
Đông Dương: “Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là một phái viên của Quốc
tế Cộng sản mà là một người Quốc gia – Xã hội mong muốn giải thoát đất nước
khỏi ách đô hộ của ngoại bang” (5). Ông nợ Liên Xô vì sự
đào tạo của họ nhưng ông đã trả lại bằng 15 năm công tác đảng, và không có bất
cứ cam kết nào khác với Liên Xô“. (4) và “đặt nhiều tin tưởng
vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên
Xô“ (5).
Lịch sử Việt Nam chắc chắn sẽ rẽ theo một hướng đi khác tốt đẹp hơn,
giá như vào thời điểm đó Tổng thống Mỹ Harry Truman không bị gốc gác con người
Hồ Chí Minh ám ảnh, mà tiếp tục liên lạc, giúp đỡ nhà nước Việt Nam mới được
thành lập và như vậy sẽ không có Chiến tranh Đông Dương cũng như lịch sử thế giới
sẽ không xuất hiện cụm từ Chiến tranh Việt Nam. Thế mới biết sự sai lầm về đường
lối của nguyên thủ quốc gia mang lại cho đất nước những hậu quả tai hại như thế
nào.
Trên thế giới thì như vậy, trong nước giới trung lưu cũng không ưa cộng
sản “nên ông phải làm mọi cách để gạt bỏ cái nhãn hiệu nói trên” (4)
bằng cách cho đảng ông rút vào hoạt động bí mật nhằm bảo toàn lực lượng và mở rộng
khối đoàn kết dân tộc. Trong tình thế đơn độc chống chọi với quân đội Pháp, khiến
cho Hồ Chí Minh hồi tâm quay lại với những người cộng sản quốc tế của mình.
Sau khi nước Công hòa Nhân dân Trung hoa ra đời thì hơn hai tháng sau Hồ
Chí Minh đã bí mật sang Trung Quốc để nhờ nối mối quan hệ với các nước cộng sản
qua sự giới thiệu của Mao Trạch Đông. Chuyến đi này “có ý nghĩa đặc biệt, nhất
là trong vấn đề Trung Quốc và Liên Xô hỗ trợ chính phủ Bắc Việt
Nam phát triển chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và chống Pháp“. (6)
Và sau khi Stalin giao cho Trung Quốc nhiệm vụ giúp đỡ Việt Nam thì bắt
đầu từ đây “hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt
Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế
ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với
Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc“ và “chính Bác
tự nguyện nhận mình chỉ nêu ra được có tác phong, còn tư tưởng, lý luận thì để
cho Mao Chủ tịch” (7).
Sau khi đã được cộng đồng các nước XHCN công nhận và giúp đỡ vật chất,
Hồ Chí Minh đã tổ chức đại hội đảng toàn quốc lần 2 và quyết định đưa đảng của
ông hoạt động công khai trở lại với tên mới là đảng Lao động Việt Nam và “khởi
xướng Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các
thành phần bị xem là “bóc lột”, “phản quốc” (những người theo Pháp, chống
lại đất nước), “phản động” (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường
hào, các đảng đối lập… để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền
chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh
chóng” (6) .
Để đẹp lòng phe XHCN, “tháng 10 năm 1952, Hồ Chí Minh đã gửi bản
‘chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam‘ cho Stalin để ‘đề
nghị xem xét và cho chỉ dẫn‘ và cho biết chương trình hành động được lập bởi
chính ông dưới sự giúp đỡ của Lưu Thiếu Kỳ“. Cuộc Cải cách ruộng
đất (CCRĐ) đã diễn ra dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung Quốc khiến cho Hồ Chí
Minh “buộc phải thay đổi đường lối dẫn ta đến sai lầm trong
cải cách rưộng đất”. (8).
Mặc dù trong CCRĐ ông không ủng hộ việc xử bắn bà Nguyễn thị Năm, nhưng
do sợ mất lập trường trước cố vấn Trung Quốc nên ông nói: “Thôi, tôi
theo đa số chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Tuy “cứ cho là không phải” nhưng
ông vẫn dành thời gian hiếm hoi đến tận nơi để theo dõi buổi đấu tố bà Cát Hanh
Long để sau đó viết bài báo “Địa chủ ác ghê” với bút danh C.B. đăng trên báo Cứu
quốc.
Như vậy chặng thời gian từ khi phát ngôn câu “Người Pháp nói
không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa” đến khi viết
đăng bài báo này mà nhân vật bị kết tội đã từng được Hồ Chí Minh ca ngợi trước
đó trong báo cáo chính trị tại đại hội đảng toàn quốc lần thứ 2 là “Những
đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ” thể hiện một sự băng
hoại nhân cách của con người mà đảng không tiếc lời ca tụng.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/2-9.png
Bài báo Địa chủ ác ghê của tác giả C.B. mà sau này mọi người đều biết đó
là HCM. Ảnh trên mạng
Ngay bản thân Hồ chí Minh đường đường là “cha già dân tộc“ nhưng vì đã
chấp nhận thần phục nên cũng không được để yên: “Họ ‘sửa‘ khá nhiều nên Bác
đau lòng: Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau đó phải gạt hết, có những
người còn bị đấu tố nữa”. Để rồi con người “đại nhân, đại trí“ này đã
khóc thú nhận sai lầm trước quốc dân (9).
Với sự nỗ lực vượt bậc Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những gì ông được
đào tạo ở Liên Xô (cũ) cùng kinh nghiệm những năm hoạt động ở nước ngoài vào thực
tiễn ở Việt Nam và đã thành công góp phần gây ảnh hưởng CNCS ra toàn thế giới,
nhưng sau khi giải phóng miền Bắc thì việc kinh bang tế thế của ông không có gì
nổi trội, cũng có thể do hình thái kinh tế – xã hội mới đã kìm hãm tài năng của
ông.
Nhằm khôi phục kinh tế sau khi đã giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh vẫn
lấy cảm hứng từ các kinh nghiệm xây dựng đất nước của Trung Quốc, khiến cho đảng
lại mắc tiếp sai lầm. “Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản
cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ
tội cho Pháp, Mỹ điều đó chỉ đúng một phần nào, còn là do ta làm vội, làm ẩu,
đánh tràn lan hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng bị
đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách cải
cách lúc đó là như thế”. (8)
Theo “Giọt nước trong biển cả“ của Hoàng Văn Hoan, thì ngay sau năm
1954 theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Trung Quốc đã đưa người và các thiết bị kỹ
thuật sang giúp Việt Nam khôi phục kinh tế sau chiến tranh, cũng như xây dựng một
nền kinh tế tương đối toàn diện để làm cơ sở vật chất, thực hiện tư lực cánh
sinh cũng như viện trợ các loại hàng hóa dùng để chi viện tiền tuyến và giải
quyết đời sống cho nhân dân, khiến cho ông từng khẳng định: “Bác tuyệt
đối tín nhiệm các cố vấn Trung Quốc” và “Tinh thần quốc tế cao
cả đó và tình thân ái của nhân dân Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam làm
chúng ta rất cảm động và biết ơn”. (10)
Trong các chuyến đi thăm Trung Quốc, Hồ Chí Minh thường thấy sự nghiệp
xây dựng CNXH ở đó là tấm gương lớn để Việt Nam noi theo và học tập. Các phong
trào thi đua với các điển hình tiên tiến ở Trung Quốc đã gây ấn tượng với Hồ
Chí Minh và tại miền Bắc cũng nở rộ các phong trào thi đua “Gió Đại Phong,
Sóng Duyên Hải”. Và khi các chiến lược của Mao nhằm bẫy những người có quan
điểm trái ngược với đảng lộ mình, thì “Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Lực,
đăng một bài trên báo Nhân
dân ngày 16 tháng 9 năm 1957 với tựa đề ‘Đập tan tư tưởng hữu
khuynh‘, lên án đó là tư tưởng độc hại và dễ lan tràn như cỏ dại,
sau đó Phong
trào Nhân Văn – Giai Phẩm bị dập tắt”. (11)
Hồ Chí Minh nêu ra mục đích xây dựng xã hội mới vì “Chủ nghĩa
xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” (12)
và để mọi người thấy rõ con đường tất yếu của đất nước, ông còn viết các bài
báo nêu lên cảnh sống khổ cực của tầng lớp dân nghèo trong chế độ tư bản với
các bút danh khác nhau, trong số đó có một bài viết được ông chơi chữ với nhan
đề ‘Mỹ mà không đẹp‘ (13).
Vậy trong thực tế người dân miền Bắc thời đó được sống ra sao? Dưới thời
ông vào buổi tối hàng ngày tổ trưởng dân phố đến từng nhà để chủ hộ khai báo
vào sổ tạm trú tạm vắng của khu vực. Đi đâu phải có giấy Thông hành và chủ
nghĩa lý lịch đã gây ra sự bất bình đẳng xã hội, làm thui chột nhiều khát vọng
và hoài bão đẹp của nhiều thế hệ thanh niên không nằm trong thành phần cốt cán
của chế độ, mặc dù ông đã nói: “Chính phủ không để tâm moi ra những tội
cũ để đem ra làm án mới làm gì” (14).
Dưới nền kinh tế kế hoạch hóa mà ông theo đuổi qua “mô hình kinh tế
tự cung tự cấp ở miền Bắc, đồng thời hạ thấp vai trò của viện trợ nước ngoài mà
chủ yếu đến từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác”, cũng như bỏ
ngoài tai ý kiến của các chuyên gia đề xuất Việt Nam nên tham gia vào Hội đồng
Tương trợ Kinh tế của khối các nước cộng sản (15), ông đề ra khẩu hiệu: “Nhanh,
nhiều, tốt, rẻ” để thúc đẩy sản xuất. Bốn tiêu chí này đứng cạnh nhau
thể hiện sự mâu thuẫn của việc duy ý chí, chữ tốt đối lập
với ba chữ đứng ở vế bên kia. Nền kinh tế Việt Nam lúc đó phụ thuộc phần lớn
vào năng suất lao động thủ công, vậy nếu coi trọng vế này thì phải chỉnh sửa vế
kia, không thể nào đáp ứng cả bốn tiêu chí trong cùng một mong muốn.
Rồi sau đó ông lại kêu gọi tinh thần yêu nước của người dân: “Mỗi
người làm việc bằng hai, vì đồng bào miền Nam ruột thịt”. Mặc dù tinh
thần và khí thế cách mạng cao như vậy nhưng người tiêu dùng thời gian đó bước
vào cửa hàng Bách hóa Tổng hợp, cửa hàng siêu thị lớn nhất Hà Nội, nơi thể hiện
bộ mặt phồn vinh của chế độ nằm ở góc phố Tràng Tiền và Hàng Bài, khó có thể
mua được các mặt hàng phục vụ đời sống thiết yếu. Phần lớn những mặt hàng bày
trên giá điều có kèm theo dòng chữ “HÀNG MẪU KHÔNG BÁN”, chúng được trang trí để
làm giảm bớt sự trống trải hàng hóa của cửa hàng và chỉ được bán theo tiêu chuẩn
phân phối và giấy giới thiệu.
Ngày nay những ai muốn hiểu rõ một phần mô hình cái thiên đường XHCN dưới
thời đại Hồ Chí Minh xin hãy ghé thăm khu nhà tập thể của nhà máy Văn phòng phẩm
Hồng Hà tại ngõ 190 phố Lò Đúc, Hà Nội. Nơi đây người dân bước ra khỏi cánh cửa
căn phòng duy nhất của cả gia đình là được tiếp xúc ngay với môi trường cộng cộng,
để mọi người có ý thức thực hành, hướng lên XHCN qua các sự chung đụng từ hành
lang, khu bếp, khu vệ sinh, khu nhà tắm của mỗi tầng nhà.
Và thành quả “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” của
ông được thể hiện rõ nét ngắn gọn qua đoạn phim thời sự dài gần 8 phút (phút thứ
36,47- 44,09) trong chương trình Giai điệu tự hào tháng 10 năm 2019, với tiêu đề ‘Đi
giữa biển vàng‘ của Đài truyền hình Việt Nam, đoạn phim được mở đầu
bằng câu nói “Có một thời như thế!” và kết thúc bằng câu: “Có
một thời bao cấp như vậy!” (16). Với “cái đói trường kỳ khiến
mỗi suy nghĩ của một ngày chỉ xoay quanh vấn đề miếng ăn”, thì làm sao
những người dân của ông với tinh thần làm chủ tập thể có thể đem hết sức mình
ra để cống hiến cho chế độ được.
Sau 9 năm ông điều hành công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chặng đường
tiến lên CNXH, thì tại Hội nghị trung ương 9 “chuyên gia kinh tế Bùi Công Trừng
đã giải thích rằng tình hình kinh tế Việt Nam DCCH là cực kỳ căng thẳng”. (15)
vì vậy năm 1966 ông không còn lạc quan cách mạng được nữa, mà đã huấn thị thuộc
cấp của ông: “Không sợ thiếu chỉ sợ phân chia không công bằng; Không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” (17).
Như vậy giữa không sợ và chỉ
sợ có một khoảng cách lớn về trách nhiệm, nó làm cho những người
‘đầy tớ của dân‘ dù mẫn cán đến đâu cũng ưu tiên lo thi hành những gì chỉ
sợ trước và những gì không sợ là nhiệm vụ
thứ yếu. Vì vậy chính phủ của ông chỉ lo sao cho người dân luôn phụ thuộc kinh
tế vào nhà nước bằng cách phân chia tiêu chuẩn theo chế độ tem phiếu. Do đó mới
xảy ra hiện tượng ngăn sông cấm chợ, cửa quyền trong lưu thông phân phối “mua
như xin, bán như cho”.
Đọc qua câu nói nêu trên của ông người ta sẽ thấy vế thứ hai có sự mâu
thuẫn. Bởi đã nghèo đói thì lòng sao yên được. Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn
ngược lại. Dân đói thì dễ trị cho nên ông và đảng “không sợ
nghèo” và đã thành công trong vấn đề bần cùng hóa xã hội miền Bắc thời
bấy giờ và cả Việt Nam sau năm 1975 qua việc kiểm soát được từng cái dạ dày của
người dân. Do nắm được nguyên lý “Vật chất quyết định ý thức” (Karl
Marx) cùng với việc thắt chặt chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo
đảng đã hóa giải được cái “chỉ sợ” trong vế thứ hai của câu nó đó.
Năm 1946 Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Nam Bộ, trong thư của ông
có đoạn: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp
nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta” và “Đối với
những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ”. Như
vậy, mặc nhiên ông thừa nhận một xã hội bao gồm nhiều thành phần dân chúng với
các trình độ nhận thức, các tập tục và các quan điểm chính trị khác nhau. Nhưng
những gì người ta thấy được rõ ràng ông không muốn trong đàn cừu mà ông chăn dắt
xuất hiện những con cừu đen.
Trong phong trào Thực hiện nếp sống mới thời đó những thanh niên mặc áo
kẻ ca rô, quần không ly hoặc ống tuýp, tóc dài đít vịt đã là những cái gai
trong mắt nhà chức trách. Vì vậy việc dập tắt cuộc nổi dậy của người dân Quỳnh
Lưu, Nghệ An năm 1956, thanh trừng các văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn –
Giai Phẩm, bắt giam tất cả những người liên quan đến chính quyền cũ, từ lý trưởng
trở lên, trước khi xảy ra cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc và bắt
giam không xét xử các nhân vật quan trọng của đảng và nhà nước trong vụ án ‘Xét
lại chống Đảng‘ cũng là điều dễ hiểu.
Cũng qua vụ án Xét lại chống Đảng, người ta lại nhận thấy ông Hồ sống
không có hậu. Ông biết những người đã sát cánh làm việc cùng ông trong những
năm khó khăn gian khổ bị Lê Đức Thọ bắt giam nhưng ông không hề tìm hiểu và can
thiệp. Trong những ngày trốn tránh Tàu Tưởng ông đã từng nghỉ tại nhà ông Vũ
Đình Huỳnh, người thư ký của ông, và được gia đình này chăm sóc chu đáo. Ông biết
sự việc nhưng ông im lặng. Sự im lặng của ông không chỉ gây ra sự sụp đổ niềm
tin về vị thánh nhân của các đồng chí của ông, mà còn dẫn đến sự chia tay ý thức
hệ cùng thần tượng của con trai ông Vũ Đình Huỳnh để rồi dẫn đến sự ra đời của
cuốn hồi ký “Đêm giữa ban ngày“. Cuốn sách là sự giã từ “ảo
ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế” của
tác giả và phơi bày những “sự biến dạng của những người cộng sản” (18).
Với mục tiêu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
và “giữ vững vị trí tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông – Nam châu Á, ra sức
góp phần tǎng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa
bình ở Đông – Nam á và trên thế giới” (19), Hồ Chí Minh không chỉ huy động nhân-tài-vật lực của miền Bắc với
tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” để
chi viện cho miền Nam, mà khi chiến tranh lan rộng ra miền Bắc ông còn đề nghị
các nước trong phe XHCN nhiệt tình giúp đỡ và giao cho một phó thủ tướng chuyên
xách cặp đi xin viện trợ của các nước này. Do đó “Trong thời kỳ chống Mỹ, phần
lớn vũ khí đạn dược và quân trang, quân dụng cũng do Trung Quốc cung cấp, gồm
quần áo, thuốc men, y cụ và nhiều đại bác, xe tăng, thiết giáp, cao xạ, tên lửa,
máy bay, tàu chiến, cùng các phụ tùng thay thế và dầu mỡ v.v… đủ trang bị cho
hơn hai triệu quân đội Việt Nam và thường xuyên cung cấp đủ số đạn được và
trang bị cần thiết cho việc tác chiến liên tục trên các chiến trường”. (10)
Cũng theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, từ năm 1965 đến năm 1970, Trung Quốc
“đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc gồm phòng không, công trình, đường
sắt và hậu cần, mang theo toàn bộ vũ khí, trang bị, phương tiện, máy móc và vật
liệu sang giúp Việt Nam” “làm cho đế quốc Mỹ không dám đưa quân trực
tiếp đụng đến đất đai miền Bắc, để quân dân ta có điều kiện dốc sức vào cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam”. Cũng từ đó, do sự “tuyệt đối tín nhiệm”
của ông đối với Trung Quốc, vòng kim cô Made in China đã dần dần được choàng
lên đầu dân tộc Việt Nam. Yên tâm khi được chính phủ Trung Quốc chống lưng: “Bảy
trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững mạnh của nhân dân Việt Nam, đất
nước bao la của Trung Quốc là hậu phương chắc chắn của Việt Nam”.
Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, trong đó ông viết: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không
sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây
dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Qua đó ông cũng xác định
nhiệm vụ cho người dân dưới quyền ông: “Vì độc lập của Tổ quốc, vì nghĩa vụ
đối với các dân tộc đang chống đế quốc Mỹ, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một
lòng, không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. (20)
Như vậy đối với ông, người dân miền Bắc chỉ là những tên lính xung kích để mở
mang ảnh hưởng của chủ nghĩa ông theo đuổi và là những viên gạch lát đường cho
ông bước lên đài vinh quang thành người chiến sĩ cộng sản trên trường quốc tế.
Kể cũng lạ, là một chính khách lão luyện, giỏi về lý số, tiên đoán trước
cả sự vận động của thế sự mà bậc đại trí của đảng lại ngây thơ chính trị không
hiểu được dã tâm “Đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của
Trung Quốc để nhằm biến mảnh đất hình chữ S này thành vùng kinh tế mới của họ.
Và cũng thật là lạ, con người từng phê phán chủ trương cầu viện Nhật để giúp
đánh đuổi Pháp của Phan Bội Châu là “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”, đã hiện thực hóa chủ trương này bằng hình thức tương tự lại được
tôn vinh thành người anh hùng giải phóng dân tộc.
_____
Chú thích:
3. vi.wikipedia.org/wiki/Hồ_Chí_Minh (phần Từ độc lập tới Toàn quốc
kháng chiến)
4. https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/ham-muon-tot-bac-cua-bac-ho-421662/
5. https://vi.wikipedia.org/wiki/Việt_Minh#Hợp_tác_với_cơ_quan_tình_báo_Mỹ_OSS
6. vi.wikipedia.org/wiki/Hồ_Chí_Minh#Giai_đoạn_kháng_chiến_chống_Pháp
7. https://www.vinadia.org/den-cu-tran-dinh
(chương 3)
8. https://www.diendan.org/viet-nam/tu-lieu-hoang-tung-1920-2010-noi-ve-ho-chi-minh
Nỗi đau thứ năm của Bác – Những Kỷ Niệm
Về Bác Hồ của Hoàng Tùng.
9. https://www.youtube.com/watch?v=DXNwhvl2k48 (CT Hồ Chí
Minh khóc và xin lỗi nhân dân sau cải cách ruộng đất | Go Vietnam)
10. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5548&rb=08
(kỳ 13, phần thứ sáu, mục II (Mối
tình thắm thiết Việt-Hoa)
11. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hồ_Chí_Minh#Giai_đoạn_sau_năm_1954
13. https://tennguoidepnhat.net/2012/04/07/my-ma-khong-dep-29-5-1964/
14. https://vi.wikipedia.org/wiki/Chủ_nghĩa_lý_lịch_ở_Việt_Nam
15. https://nghiencuuquocte.org/2013/08/20/chu-nghia-xet-lai-vndcch/
16. https://www.youtube.com/watch?v=tkPLHOVTgfM (Độc giả
có thể tham khảo kỹ hơn cuộc sống của người dân miền Bắc dưới thời đại Hồ Chí
minh qua đường link: https://www.youtube.com/watch?v=hiDnBB3rFP0)
17. https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/bac-ho-so-gi-khong-so-gi-383077/
18. https://www.vinadia.org/dem-giua-ban-ngay-vu-thu-hien/dem-giua-ban-ngay-tu-bach/
No comments:
Post a Comment