Wednesday 12 August 2020

CÓ PHẢI NGƯỜI NGA LUÔN CHƠI THEO KIỂU CỦA HỌ (Historyextra.com)

 


Có phải người Nga luôn chơi theo kiểu của họ

Thu Phong Sơn Cước

Dịch từ Historyextra.com

12/08/2020

https://nghiencuulichsu.com/2020/08/12/co-phai-nguoi-nga-luon-choi-theo-kieu-cua-ho/

 

Nhìn lại sự ủng hộ Assad của Nga tại Syria, vai trò đáng ngờ của quốc gia này trong việc đầu độc một sĩ quan tình báo tại Salisbury và sự can thiệp có chủ đích trong cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ, chín sử gia đã đưa ra quan điểm về việc những hành động ấy có phản ánh thái độ lịch sử của nước Nga trước những quy ước quốc tế đã được công nhận hay không

 

SỬ GIA JANET HARTLEY

Phương Tây và châu Âu đều hiểu rằng Nga không phải là “một trong số họ”

 

“Nước Nga là một quốc gia châu Âu”. Catherine Lớn, nữ hoàng Nga, đã phát biểu như vậy năm 1767 trong Chỉ dụ của bà – một kiểu văn kiện có tính hướng dẫn – về các dạng chính quyền ‘kiểu châu Âu’ mà nước Nga chia sẻ với các nước ‘văn minh’ khác ở đông và trung Âu. Nữ hoàng Catherine là người gốc Đức, những gì bà khẳng định đã có từ người tiền nhiệm, Peter Đại đế, người đã cố gắng hiện đại hóa xã hội và các thể chế của Nga dọc theo các tuyến đường đông Âu, cũng như cháu nội bà là Alexander I, người đã giải cứu châu Âu khỏi bạo chúa Napoleon, và tất cả những sa hoàng cho tới năm 1917. Đế quốc Nga là một phần của châu Âu, và vì thế tuân theo những luật lệ của châu Âu.

 

Vậy thì ‘tính châu Âu’ được biểu hiện thế nào? Nga có chung những truyền thống Kitô giáo của châu Âu, và góp phần trong mọi dạng văn hóa châu Âu. Tư tưởng và triết học châu Âu – về thể chế chính quyền, xã hội, tội phạm và trừng phạt – đều có dính dáng tới Nga. Nga tuân thủ những quy tắc ngoại giao châu Âu và là thành viên được chấp nhận trong hệ thống các nước châu Âu. Quân đội Nga có chung kiểu đánh trận với các đạo quân châu Âu khác. Hơn thế nữa các sa hoàng rất có thể đã sao chép cả những thể chế châu Âu, luật pháp và những tước hiệu quý tộc. Họ thoải mái nhào nặn xã hội thượng lưu và thành thị để cho thần dân của mình hành xử, và thậm chí là ăn mặc, cho giống người châu Âu.

 

Nhưng có hai vấn đề. Thứ nhất, việc áp dụng các thể chế kiểu châu Âu luôn bị cản trở bởi những đặc tính mà chỉ Nga mới có: quy mô rộng lớn của đế quốc khiến cho việc muốn thay đổi gì đó rất khó; sự tồn tại của giai cấp nông nô cho tới năm 1861 đã giới hạn sự phát triển kinh tế xã hội; các sa hoàng không muốn giảm bớt quyền lực của mình cho tới khi buộc phải làm vậy do cuộc cách mạng năm 1906; ý thức pháp luật và cơ chế chính quyền tiến triển rất chậm.

 

Thứ hai, đông và trung Âu đều nhận thức rằng nước Nga không phải là một trong số họ; Nga lạc hậu và không đáng tin. Tuy Nga cũng cố gắng, hoặc được xem là cố gắng, tuân thủ các luật lệ châu Âu, nhưng người ta vẫn không bao giờ xem Nga là một nước châu Âu toàn diện. Mối quan hệ lỏng lẻo kiểu như vậy tiếp diễn cho tới khi Liên Xô phá vỡ các quy tắc ngoại giao năm 1918, đe dọa sự phát triển của thế giới và đi con đường riêng của mình.

 

SỬ GIA HELEN RAPPAPORT

“Nga cô lập do họ vẫn tự nghĩ rằng mình đang bị bủa vây bởi các thế lực thù địch”

 

Nữ hoàng Victoria đã đặt vấn đề về cách hiểu nước Nga. Năm 1838, quan tể tướng Viscount Melbourne đã chỉ ra thành trì tư tưởng của nước này. Nga, ông giải thích, rồi sẽ thu mình về góc trời của mình, trong tuyết phủ và sương mù. Hoảng sợ trước “sự bá đạo” của Nga, nữ hoàng Victoria coi đó là một mối đe dọa. Người nga “rất không đáng tin” và “đối lập hoàn toàn với Anh quốc.”

 

Những kỳ vọng đã thay đổi khi Peter đại đế lên ngôi đầu thế kỷ 18 và hướng về phương tây, ông tìm cách hiện đại hóa một nước Nga lạc hậu. Nhưng vương quốc của ông vẫn rất khác người: lạ lùng, bán châu Á, suy nghĩ đơn giản, không giống chúng ta. Noi gương Thụy Điển và Pháp, Nga chống lại những xâm phạm của phương Tây và luật lệ của nó. Sa hoàng Alexandra nói rằng người Nga không hiểu cộng hòa là gì – họ chỉ hiểu luật lệ chuyên chế mà thôi.

 

Khi Nga áp đặt Công ước Warsaw, một thứ hiệp ước bảo vệ toàn diện giữa các nước cộng sản đông Âu với nhau, trong những năm hậu Thế chiến thứ 2, cho thấy họ kiên quyết chống lại sự xâm phạm của Nato và các giá trị tự do của nó. Tuy có thời gian ngắn ngủi nối lại quan hệ dưới thời Gorbachev, và sau khi cộng sản sụp đổ năm 1991, nhưng Nga vẫn cô lập do tự nghĩ rằng họ đang bị bủa vây bởi các thế lực thù địch.

 

Biểu hiện gần đây về thái độ của Nga trước những quy tắc đó là các vụ scandal sử dụng doping trong thể thao. Họ xem thường những luật lệ – và khi phải nhận hình phạt thích đáng thì Nga tiếp tục vi phạm luật quốc tế và nhân quyền: sát nhập Crimea, ủng hộ phe ly khai Ukraina và Assad tại Syria. Thế giới phản đối – nhưng vô ích. Nga vẫn chơi theo kiểu của họ, như kiểu của Liên Xô ngày xưa.

 

Những sự kiện tại Salisbury tháng 3/2018 đã khơi lại những thù hằn thời Chiến Tranh lạnh. Nhưng trên thực tế những thù hằn ấy vẫn luôn nằm đó. Chủ nghĩa dân tộc của các sa hoàng đã hồi sinh với sự trỗi dậy không thể ngăn cản nổi của Vladimir Putin – một gã chính khách muốn thâu tóm toàn bộ chính quyền vào tay, như đã từng thấy trong những chính sách bức hại thời Xô Viết. Như một người Nga có lần từng nói với Munster, một nhà ngoại giao người Đức thế kỷ 19: “mọi quốc gia đều có thể chế riêng. Ở chỗ chúng tôi là chủ nghĩa toàn trị vận hành bằng sự thủ tiêu.”

 

DAVID V GIOE VÀ MICHAEL S GOODMAN

Theo tiêu chuẩn của người Nga thì không có giới hạn nào cho sự phản bội

 

Ngày 4/3, Sergei Skripal, nguyên sĩ quan tình báo quân đội Liên Xô, và con gái ông là Yulia được phát hiện bất tỉnh tại Salisbury, miền nam nước Anh, khả năng rất cao là do bị trúng độc Novichok, một loại độc tố người ta biết là có tại Nga.

 

Theo các bài báo thì Skripal từng phục vụ tình báo Anh ít nhất một thập niên, đã cung cấp những thông tin hủy hoại Nga. Skripal bị bắt và kết tội phản quốc năm 2006 tại Nga, nhưng 2010 được trao đổi trong một thỏa thuận tình báo giữa Nga, Anh, và Mỹ. Ông định cư tại Anh và sống ẩn mình.

 

Moscow có một lịch sử dài về việc mưu sát những kẻ thù của quốc gia sống ở những nơi xa. Những người hợp tác với phương Tây, nhất là trong mảng tình báo, sẽ là mục tiêu ám sát đặc biệt. Năm 1937, Ignace Reiss, sĩ quan tình báo Liên Xô mới bỏ đảng trước đó bị hành quyết tại Thụy Sĩ; bạn ông và đồng nghiệp cũ là Walter Krivisky ly khai sau đó một tháng và bị giết tại Washington DC năm 1941. Trong nước thì các vụ ám sát xảy ra dưới nhiều kiểu khác nhau nhắm vào cả chính trường.

 

Những kẻ thù của nước Nga, cũng như trong thời Liên Xô, sẽ bị kết liễu bằng nhiều cách. Ném qua cửa sổ, bỏ đói, đánh đến chết, đều là những cách giết kinh khủng, nhưng kiểu chơi của Nga thường là dùng độc, vì một số lý do. Thứ nhất, nhẹ nhàng và có thể thực hiện ở bất cứ đâu; thứ hai nạn nhận sẽ phải chịu đau khổ ngay trước mặt người khác.

 

Sau vụ đầu độc Skripal, Boris Johnson, bộ trưởng ngoại giao Anh, nói rằng “Đây là lần đầu tiên một độc chất thần kinh được sử dụng tại châu Âu kể từ sau Thế chiến II.” Lời phát biểu này đã bỏ qua vụ mưu sát Georgi Markow năm 1978 bằng chất rixin trên Cầu Waterloo. Tuy rixin về mặt kỹ thuật không phải một chất thần kinh, nhưng phát biểu của Johnson không phân biệt sự khác nhau cho những cách thức đầu độc của người Nga tại Anh kể từ vụ mưu sát Markov.

 

Thông điệp người Nga gửi tới những tình báo ly khai, những phóng viên và những kẻ thù chính trị, là rất rõ ràng – hãy chọn phe cho cẩn thận và tự hỏi: chúng có bảo vệ được ngươi được mãi hay không? Theo quan điểm của Nga thì không có bất kỳ quy tắc giới hạn nào cho sự phản bội. Một tình báo, như Skripal, được trao đổi với phương tây trong một thỏa thuận tình báo, không có nghĩa là anh ta đã được tha thứ – cũng không có nghĩa là người Nga quên đi sự phản bội.

 

DINA GUSEJNOVA

Chính sách ngoại giao của Nga không còn mang tính quốc tế nữa, nhưng là sự trả đũa

 

Từ “Nga” có phải là “Liên bang Nga” hay không, hay chỉ là một cách gọi khác của Liên Bang Xô Viết và Đế quốc Nga? Đưa ra hình ảnh đó để thấy rằng đất nước này vẫn duy trì chế độ toàn trị trên toàn diện lãnh thổ về cả mặt địa lý lẫn văn hóa. Nhưng khi bước ra thế giới thì những khác biệt trở nên nghiêm trọng.

 

Dưới chế độ Xô Viết và quân chủ, ý tưởng về ‘định mệnh’, gắn với chế độ chuyên chế, Chính Thống cũng như học thuyết đảng trị Xô Viết, được áp dụng nguyên si khi chơi với nước khác. Sức mạnh mềm được dùng rộng rãi, từ Liên Minh Thần Thánh hình thành tại Nga năm 1815 giữa Nga, Áo, và Prussia, cho đến việc thể chế hóa việc phân xử quốc tế tại Hague cuối thập niên 1890, trong đó các luật sư Nga đóng vai trò trung tâm áp đặt các chính sách Xô Viết về chủ nghĩa quốc tế theo kiểu Quốc tế Cộng sản.

 

Liên bang Nga ngày ngay không có cái khả năng lý tưởng ấy. Những gì còn lại là những mảng vỡ của quá khứ: ý tưởng về một thế giới Chính Thống thiết lập trên đế quốc Ottoman, sự thống trị của Công giáo và Tin Lành, hay quan điểm thô bạo của Bolshevik nhắm vào các hệ thống pháp lý phương Tây. Phương pháp hỗ trợ các phe phái chính trị tại những khu vực bất ổn thông qua các biện pháp can thiệp tình báo bí mật, vốn có từ thời Nội Chiến Tây Ban Nha, mà Nga thường sử dụng tiếp tục được tái diễn.

 

Đế quốc Nga và Liên bang Xô Viết theo chủ nghĩa quốc tế ở vẻ ngoài khi họ ủng hộ một số con đường cụ thể; ngược lại, ngày nay, chính sách ngoại giao của Nga là một thứ hình thức can thiệp trả đũa. Cũng như những nước nhỏ hơn trong Hiệp ước Warsaw tìm kiếm sự bảo vệ từ EU và Nato, nước Nga hậu Xô Viết là một mảng liên minh chắp vá lỏng lẻo và chống lại cả hai. Không có cơ chế ý thức hệ thay thế như thể Quốc tế Cộng sản, nước Nga cũng không muốn định hình các thể chế luật lệ quốc tế hiện có thành kiểu mình thích. Thay vì đó, các lãnh đạo chính trị, bao gồm cả tổng thống, ngành ngân hàng và giáo hội, cùng xây dựng những nguyên tắc cá nhân trong nền kinh tế toàn cầu. Trong khi Nga đang thích nghi với một thế giới thay đổi nên người Nga thật sự đang chơi theo luật riêng của mình.

 

GEOFFREY ROBERT

Sau khi những người Bolsheviks chiếm được quyền lực tại Nga năm 1917 thì họ nhắm mục tiêu bẻ gãy tất cả mọi luật lệ về quan hệ quốc tế bằng cách thúc đẩy một cuộc cách mạng toàn cầu nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản và thiết lập một liên bang cộng sản toàn cầu dựa trên sự đoàn kết giai cấp.

 

Những nỗ lực truyền bá cách mạng của những người Bolshevik do Quốc tế Cộng sản (Comintern) lãnh đạo, và các nhà ngoại giao Liên Xô tích cực hỗ trợ. Những người này hành xử như những kẻ kích động hơn là những đại sứ nhà nước. Kiểu kết hợp giữa cách mạng và ngoại giao này càng thêm mạnh mẽ do có sự can thiệp mạnh của thế lực nước ngoài vào Nội chiến Nga. Viễn cảnh tận thế của nước Nga Xô Viết cuốn lấy cuộc đấu tranh sinh tử với chủ nghĩa tư bản quốc tế trở thành trung tâm khẳng định danh tính hậu cách mạng của những người Bolshevik.

 

Ngoại giao của Liên Xô trở về vai trò truyền thống sau cuộc nội chiến. Khi nhìn nhận ngoại giao thì việc thương mại và chung sống hòa bình là những ưu tiên hàng đầu. Mặc dù những người Bolshevik vẫn muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản thế giới, nhưng họ đã chuyển sang dùng giao truyền thống và các quy tắc của nó. Thật vậy, vào những năm 1930, khi Liên Xô gia nhập Liên Hiệp Quốc, Moscow đi đầu về bảo chủ quyền quốc gia và nguyên tắc không can thiệp vào chuyện nội bộ nước khác. Moscow tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác thông qua Comintern nhưng các nhà ngoại giao Liên Xô khẳng định đó hoàn toàn là vấn đề của đảng cộng sản. Một thế kỷ sau, chế độ Putin vẫn cam kết tuân theo các nguyên tắc được đề ra bởi ngoại giao Liên Xô trong những năm 1920. Nhưng không liên hệ gì với Quốc tế Cộng sản.

 

Giống như tất cả các cường quốc, Nga luôn quan tâm đến chủ quyền của quốc gia nhưng sẽ bảo vệ lợi ích của mình bằng mọi cách, kể cả can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Nước Nga Xô Viết muốn lật đổ nền dân chủ tự do phương Tây, nhưng mục tiêu của Putin hạn chế và mang tính phòng thủ hơn nhiều: biên giới an toàn, láng giềng thân thiện và Nga được nhìn nhận là một nhà chính trị toàn cầu được kính trọng.

 

Chỉ có một chi tiết là Putin thực sự là một đứa con tư tưởng của Cách mạng Bolshevik – với quyết tâm cách ly nước Nga khỏi những âm mưu thay đổi chế độ lấy cảm hứng từ phương Tây.

 

CATHERINE DANKS

Putin ủng hộ một ‘nền dân chủ có quản lý’, đề cao lòng yêu nước và các giá trị truyền thống của Nga.

 

Trong những năm 1920, những người theo chủ nghĩa xã hội Nga đã phát triển một khái niệm gọi là Chủ nghĩa Á Âu như một tư tưởng thay thế cho chủ nghĩa Bolshevik. Họ tin rằng Nga là một nền văn minh độc đáo, và không cần xài chủ nghĩa tự do và dân chủ phương Tây, nhưng cũng không bác bỏ hoàn toàn. Bằng cách dựa trên sự đa dạng phong phú của Âu-Á và kết hợp những gì tốt nhất từ ​​cả phương tây và phương đông, họ tin rằng Nga có thể tạo ra thứ phù hợp nhất với văn hóa và truyền thống của mình.

 

Trong những năm 1990, nước Nga thời hậu cộng sản bắt đầu trở thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tự do, dân chủ, kiểu phương Tây với chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa Đại Tây Dương. Đây là thời kỳ hỗn loạn, bất ổn và đói kém đối với hầu hết người Nga. Theo một cuộc khảo sát dư luận năm 1997, 60% người Nga từ chối mô hình tư bản chủ nghĩa theo cảm hứng của Washington và tin rằng Nga đang đi sai đường.

 

Một loại hình chủ nghĩa Á Âu mới, vốn buộc tội phương Tây đã cài cắm một gói cải cách ngoại lai với mục đích làm suy yếu nước Nga, nhận được sự ủng hộ của cả những người cộng sản và người theo chủ nghĩa dân tộc.

 

Putin đã không theo tân chủ nghĩa Á Âu này khi trở thành tổng thống vào năm 2000. Ông tìm kiếm một mối quan hệ mang tính xây dựng với Hoa Kỳ, bắt đầu củng cố nhà nước và củng cố quyền lực ở Điện Kremlin. Tuy nhiên, vào thời điểm trở lại nhiệm kỳ vào năm 2012, Putin ngày càng sử dụng các ý tưởng của chủ nghĩa Á Âu để đưa ra lời giải thích lịch sử và văn hóa về lý do và cách thức mà Mỹ (phương Tây) đang tìm cách làm suy yếu Nga. Vào năm 2014, ông thậm chí còn khuyên các công chức và chính trị gia nên đọc các nhà văn theo trường phái Á âu. Nhưng người này nhấn mạnh vai trò thiên sai của Nga trong lịch sử thế giới và tầm quan trọng của việc bảo tồn và khôi phục các biên giới lịch sử của Nga và của giáo hội Chính thống Nga.

 

Putin cũng ủng hộ một “nền dân chủ có quản lý”, đề cao lòng yêu nước và các giá trị truyền thống của Nga. Hệ quả là xảy ra một cuộc đàn áp các tổ chức phi chính phủ do nước ngoài tài trợ, đạo luật chống lại các hành vi tình dục “phi truyền thống” và cấm “tuyên truyền đồng tính”.

 

Thời gian sẽ trả lời liệu Putin có kiên trì với chủ nghĩa Á âu hay không, hay chỉ nhận ra sự hữu ích của một hệ tư tưởng sẵn có, lợi dụng nó làm cơ sở lý luận cho những chính sách của mình. Putin thực dụng và am hiểu quyền lực; Chừng nào chủ nghĩa Á Âu còn hữu dụng thì ông ta sẽ không từ bỏ nó.

 

CHARLOTTE ALSTON

Các nhà lãnh đạo Liên Xô sử dụng biện pháp ngoại giao truyền thống, vừa sử dụng các hành lang bên ngoài

 

Câu hỏi liệu Nga có tuân theo các tiêu chuẩn do Tây Âu đặt ra hay không đã có từ lâu. Vào thế kỷ 19, các chính khách và nhà tư tưởng Nga đã chỉ ra những viễn cảnh khả dĩ mà nước Nga và đế chế của nó sẽ trở thành. Nga có nên xây dựng ‘nền văn minh’ kiểu phương Tây không? Hay nên bám lấy truyền thống của riêng mình và trở thành tiên phong theo cách đó. Vào những thời điểm lịch sử quan trọng – năm cách mạng 1917 và sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 – các nhà quan sát phương Tây kỳ vọng Nga sẽ đi theo con đường Tây phương hóa và dân chủ hóa, và họ phải thất vọng cả hai lần.

 

Ngay cả khi Nga đi theo con đường riêng của mình, với tư cách là cường quốc Slav hàng đầu trong thế kỷ 19 hay là nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vào thế kỷ 20, họ vẫn trông về phía Tây. Sự phát triển công nghiệp dưới thời Stalin kèm theo những tuyên bố hùng hồn về việc theo kịp và vượt qua các cường quốc công nghiệp lâu đời. Điều này cũng đúng với các thành tựu khoa học và văn hóa trong Chiến tranh Lạnh. Trong suốt thời gian tồn tại của Liên Xô, các nhà lãnh đạo vừa sử dụng chính sách ngoại giao truyền thống (thông qua các liên minh trong thời chiến, hay Liên Hiệp Quốc trong thời bình) vừa có những hành lang bên ngoài (thông qua ngoại giao cách mạng và ủng hộ các đảng cộng sản ở nước ngoài).

 

Một đặc điểm đã có từ lâu khác trong mối quan hệ giữa Nga và Tây Âu là trong suốt thế kỷ 19 và 20 xảy ra một cuộc di cư chính trị của người Nga. Vào cuối thế kỷ 19, các nhà cách mạng Nga đã tổ chức và vận động ở nước ngoài chống lại chế độ Nga hoàng. Trong những năm 1920, những người phản đối chế độ Xô Viết sơ khai đã vận động ở các thủ đô nước ngoài. Vào cuối thế kỷ 20, văn học bất đồng chính kiến ​​đã định hình cách hiểu của phương Tây về hệ thống Xô Viết. Những mạng lưới như vậy đã được chính phủ Nga giám sát chặt chẽ. Vào cuối thế kỷ 19, văn phòng Okhrana (cảnh sát mật Nga hoàng) ở Paris để mắt đến những người cách mạng ở London; vào những năm 1920, Tổ chức Trust do GPU (cảnh sát mật Liên Xô) bảo trợ đã thao túng các đối thủ ở nước ngoài.

 

Rõ ràng, có sự khác biệt rõ rệt về kinh tế và chính trị giữa giới đầu sỏ chính trị Nga ngày nay và những cuộc di cư cách mạng hoặc phản cách mạng của những thập kỷ trước, giống như giữa nước Nga của Vladimir Putin và các chế độ trước đó. Nhưng câu hỏi về mối quan hệ của Nga với các đối tác phương Tây là một câu hỏi dai dẳng.

 

EVAN MAWDSLEY

Những người chịu trách nhiệm với nước Nga cảm thấy bất an theo cách mà những nhà lãnh đạo ‘bình thường’ khác không có.

 

Câu hỏi đặt ra giả thuyết rằng có những quy tắc, và sẽ có một số tình trạng được coi là “bình thường”, số khác thì không; cả hai giả định đều cần tìm hiểu. Tuy nhiên, ta chấp nhận rằng về cơ bản Nga đã hành xử khác với các nước lớn khác ở châu Âu và Hoa Kỳ.

 

Vấn đề ‘chơi theo luật’ nảy sinh ngay sau năm 1945, khi các chính phủ phương Tây tranh cãi về việc nước Nga Xô Viết đột ngột đảo ngược quá trình tái hội nhập thời chiến vào hệ thống quốc tế. Tìm hiểu bản phân tích năm 1946 về “cách Liên Xô ứng xử” của nhà ngoại giao Hoa Kỳ George Kennan, ta có thể xác định một số yếu tố liên quan đã khiến nước này hành xử như một kẻ ngoại đạo trong gần 75 năm, bao gồm hơn 25 năm của nước Nga thời hậu Xô Viết (Liên Bang Nga)

 

Trước hết, trong phần lớn lịch sử của mình, Nga bị cô lập với thế giới bên ngoài, và khi nước này thực hiện hiện đại hóa (dưới thời cộng sản) thì quốc gia mới đã nỗ lực hết sức để kiểm soát và hạn chế tiếp xúc. Đây là một khía cạnh mà Liên Bang Nga khác hẳn với Liên Xô, nhưng Vladimir Putin và thế hệ lãnh đạo hiện tại đã được nuôi dưỡng theo tư duy của Liên Xô.

 

Ngoài ra, những người nắm quyền nhà nước Nga, trong suốt thời kỳ này, cảm thấy bất an theo cách mà các nhà lãnh đạo của các chính phủ ‘bình thường’ không có. Thảm họa của cuộc xâm lược và chiếm đóng của Đức trong năm 1941–45, và cuộc khủng hoảng tồn tại kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, không có gì sánh được. Những nguồn cơn gây bất an bao gồm sự bất mãn lan rộng với điều kiện kinh tế, và xung đột sắc tộc trong một không gian địa lý với nhiều bản sắc trái ngược nhau.

 

Nước Nga đương đại có lẽ yếu hơn về địa lý, nhân khẩu, kinh tế, quân sự và ngoại giao so với bất kỳ thời điểm nào trong thế kỷ qua. Để đối phó với tình huống đáng sợ này, chính phủ ở Moscow đã có lợi thế hơn các đối thủ quốc tế về sức mạnh thể chế của mình so với xã hội dân sự Nga. Cả dưới thời những người cộng sản và dưới thời những người kế nhiệm của họ, có rất ít sự kiểm tra về những gì nhà nước Nga có thể làm – quốc gia này luôn có luật riêng của nó.

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats