Thứ Năm, 13/08/2020
Đầu thập niên 60, chúng
tôi thường tụ tập ở nhà Hứa Văn Định. Chúng tôi ở đây là một số người trẻ sàn
sàn tuổi nhau kết thân với nhau không phải vì tính khí, mà vì cùng có một đam
mê – viết văn. Không thể nào giải thích được cái sự đam mê này. Mê là mê, tự
nhiên vậy thôi.
Có thể là những câu chuyện
trở thành ấn tượng đòi được viết ra, cũng có thể do sự lôi cuốn của những con
chữ. Người ta gọi “cây bút trẻ” để phân biệt những kẻ từng có tác phẩm (sách
hay bài báo), với những người có chân trong Hội Nhà văn, một thứ Viện Hàn lâm
Văn chương thời ấy.
Hứa Văn Định là biên tập
viên Xưởng phim Việt Nam. Trong chúng tôi anh đã có nhiều bài báo, vài cuốn
sách được in, nhưng không ai gọi anh là nhà văn trong ý nghĩa trên. Anh cũng chẳng
màng cái danh hiệu ấy. Với anh, được coi là người trong giới viết lách để có thể
tụ bạ với bè bạn cùng một thú chơi là đủ.
Nói cho đúng, nhà không
phải nhà anh, mà là nhà vợ. Ngôi nhà riêng, lại lớn, là rất hiếm ở Hà Nội thời ấy.
Những ngôi nhà như thế thường bị chính quyền cho các gia đình cán bộ vào ở, bằng
thuyết phục thì ít, bằng cưỡng bức thì nhiều.
Cái sự đàn đúm rất mực hồn
nhiên của chúng tôi hoá ra lại có hậu quả tồi tệ. Ai cũng biết nhà cầm quyền
không ưa sự quần tam tụ ngũ của dân chúng, bất kể thứ dân chúng nào, cho nên thấy
mấy thằng nhãi ranh tụ họp nhau không biết bàn những chuyện gì thì chính quyền
ngứa mắt lắm. Qua một anh công an cỡ kha khá, khoái đánh bạn với dân làng văn
(không biết vì công vụ hay vì cảm tình cá nhân) mới biết hồi ấy chúng tôi được
công an đặt cho cái danh hiệu rất ghê răng là “lũ bất trị”.
Cổ nhân dạy: “Bệnh giai
do khẩu nhập, hoạ giai do khẩu xuất” là chí lý. Bất cứ ai lỡ lời đụng tới “ông
Đảng, ông Nhà nước” là đủ để chính quyền cho lên bờ xuống ruộng rồi. Mà cái sự
quần tam tụ ngữ của dân có chữ nghĩa thì lại càng khó ưa, không phản cách mạng
thì cũng phản tuyên truyền. Mà nhà cầm quyền chuyên chính vô sản nghĩ không sai
– cứ ba thằng dân ngồi với nhau thì y như rằng thể nào cũng động đến chính trị.
Mà chính trị là gì nếu không phải là bình luận về sự cai trị của nhà nước. Nguy
hiểm là thế, mà Hứa Văn Định cứ vô tư, trong trường hợp này phải dùng chữ nhơn
nhơn mới đúng, cứ duy trì cái “Chiêu Anh Quán” của anh như thường.
Hứa Văn Định không sợ,
hay là người làng Văn Hàn ở Thái Bình có máu liều, tôi không rõ. Dù sao mặc
lòng, nhờ có cái máu ấy của Hứa Văn Định mà anh em chúng tôi có được một thứ
câu lạc bộ văn chương đặc biệt, nơi mọi sự cấm kỵ theo lệnh miệng và lệnh giấy
của các lãnh tụ anh minh được bỏ lại ở ngoài cửa phòng cùng với giày dép.
Nhà Hứa Văn Định, như tôi
đã nói, là nhà riêng, chỉ có hai hộ trong một gia đình, cho nên chúng tôi ra
vào nhà anh tự nhiên như không. Chứ vào những ngôi nhà lớn khác, bị dân tứ chiếng
chiếm cứ mỗi hộ một mảnh thì không thể tự nhiên như thế được. Ra vào những chốn
ấy phải thận trọng, phải ngó trước ngó sau. Ở nơi không biết ai là ai, dân lại
được dạy dỗ đến nơi đến chốn tinh thần cảnh giác cách mạng, cái sự báo cáo báo
cầy là chuyện thường ngày ở huyện. Chẳng may bị báo cáo là tha hồ lên đồn vào
quận, chờ được vạ thì má đã sưng. Tôi biết có những người đi tù oan chỉ vì một
bản báo cáo bâng quơ của một tên bá vơ nào đó.
Nói cho công bằng, chúng
tôi có bị rơi vào sổ đen của công an cũng chẳng oan bao nhiêu. “Lũ bất trị” về
sau này tan tác, đứa đi tù, đứa bị tước bút, nhẹ thì cũng bị chuyển công tác từ
trung ương về tỉnh, không cho lên chức lên lương hàng chục năm. Ít ai thoát khỏi
cái vạ vịt của cái não trạng nhìn đâu cũng thấy địch. Chỉ cần điểm mấy mặt sau
đây là đủ thấy: Hứa Văn Định, Phùng Quán, Vũ Huy Cương, Nguyễn Lộc, Huy Vân,
Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên, Kỳ Vân, Mạc Lân, Xuân Khánh, Dương Tường, Châu Diên,
Phù Thăng, Nguyễn Dậu …
“Rặt một lũ mất dạy”, là
nhận định của các vị cầm cân nảy mực trong triều đình mà sau này chúng tôi mới
biết.
Lớ ngớ thế nào mà Hoàng
Tiến lại rơi vào lũ “mất dạy” ấy mới kỳ. Anh hiền lành một cục. Hiền nhất trong
chúng tôi là Nguyễn Thế Hội, biên tập viên nhà xuất bản Lao Động. Hội bị cận thị
nặng, quanh năm vận áo dạ Tôn Trung Sơn, không đen cũng không tím, cổ áo cổ tay
đều đã sờn.
Là “con em nhân dân lao động”
theo lý lịch, nhưng để nuôi bà vợ ốm và đàn con lít nhít, “con em nhân dân lao
động” vẫn phải viết “như bổ củi”. Tác phẩm của anh ra ào ào, cái nọ nối tiếp
cái kia, cái cho nhà xuất bản, cái cho xưởng phim hoạt hình (có Vũ Huy Cương
làm tay trong), hoặc xưởng phim đèn chiếu (là nơi không ngòi bút tên tuổi nào
buồn viết).
Hội đến câu lạc bộ Hứa
Văn Định chỉ để ngồi nghe và cười ruồi. Nhưng một khi cóc đã mở miệng thì thôi
rồi, đố ai cản nổi. Mỗi khi Nguyễn Thế Hội bật nói những điều không hiền lành
thì Xuân Khánh rón rén đứng lên, nhẹ nhàng khép cửa cho chặt thêm. Anh không sợ,
nhưng giữ thói quen cẩn tắc.
Hoàng Tiến là một “phiên
bản” của Nguyễn Thế Hội, nhưng đẹp giai hơn bản chính. Tầm thước, hơi mập,
gương mặt khôi ngô, anh giống một thư sinh phố huyện hơn một nhà văn trải mùi đời
gót rỗ kỳ khu. Cái xà cột bất ly thân bằng vải bạt dày của anh là một kho đầy ắp
ghi chép và bản thảo.
Hoàng Tiến xuất ngũ làm
biên tập viên xưởng phim cùng với Hứa Văn Định. Định thích ngồi nhà đọc sách và
suy ngẫm, Hoàng Tiến hết bịa ra công kia lại việc nọ để đi khỏi thành phố. Trở
về Hà Nội, anh đến với chúng tôi, lặng lẽ hớp từng ngụm trà móc câu với vẻ
khoái trá trầm tư của dân sành điệu. Trong khi anh em ồn ào tranh luận về đủ thứ
trên trời dưới đất, thì Hoàng Tiến ngồi nghe, không tán thưởng mà cũng chẳng phản
bác. Đến nỗi Vũ Huy Cương đa nghi đã có lúc ngờ Hoàng Tiến là người của công an
mật. Đáp lại nỗi nghi ngờ ấy, Hứa Văn Định phán một câu: “Hoàng Tiến mà là “cá”
thì ông phải là “cá” mập!” Cương nhún vai, không tin vẫn không tin, nhưng chơi
vẫn chơi. Cương không bao giờ chịu được cái tiếng hèn, công an thì công an, đã
chơi thì không sợ, đã sợ thì không chơi.
Chẳng qua chỉ tại Tiến
kín tiếng quá, ít lời quá. Tính về sự kiệm lời anh không kém Hội một li ông cụ
nào. Tiến kín tiếng đến nỗi chúng tôi hoàn toàn mù tịt về về cuộc sống riêng tư
của anh, trong khi mọi người trong câu lạc bộ Hứa Văn Định đều biết rõ gia cảnh
của nhau, nhờ đó mà không ít lần đã cứu nhau kịp thời, những lúc nhà này nhà
kia rơi vào cảnh túng quẫn. Mặc dầu Hứa Văn Định đã bảo đảm cho Hoàng Tiến,
nhưng người kín tiếng như anh, của đáng tội, vẫn gây ra nếu không nhiều thì ít
nghi ngại.
Hồi ấy, mà chẳng cứ hồi ấy,
đám viết văn trẻ bao giờ cũng ớn nền văn nghệ quan phương. Cách mạng vừa mới khắc
xong cho nó những con dấu là văn nghệ quan phương lập tức xuất hiện. Nó vác mặt
lên trước mọi cái cả gan khác với nó, nó đọc chính tả cho mọi người chép, không
coi ai ra gì. Còn hơn thế , nó sẵn sàng vung dùi cui nện tới tấp lên đầu những
kẻ cứng đầu. Cho nên mới có vụ “Nhân văn – Giai phẩm”, người đi tù, kẻ buộc phải
bỏ bút. Bắt đầu thời kỳ thống trị của văn học lưỡi gỗ. Lối viết tô hồng cuộc sống
xã hội chủ nghĩa, chúng tôi ít nhiều đều phải tuân theo, nhưng trong thâm tâm
anh nào cũng giãy giụa để thoát khỏi cái mạng nhện của nó.
Trong cuộc đấu tranh để tự
giải phóng, chúng tôi có nhiều huyễn hoặc về mình. Chẳng cần ai trao cho, chúng
tôi cũng tự khoác lên vai cái sứ mệnh phải sáng tạo ra một cái gì đó hay ho, một
cái gì đó thật đẹp, thật ra hồn, dù chúng tôi chẳng biết mặt mũi nó ra sao,
cũng chẳng biết phải làm ra nó bằng cách nào. Ưu điểm lớn nhất mà chúng tôi có
là biết mình thất học. Để bù vào sự thiếu hụt ấy chúng tôi đọc ngày đọc đêm những
tác phẩm của văn học Liên Xô, thứ sách có nhiều và rẻ. Rồi khi nhà xuất bản Văn
Học hay Văn Hoá, tôi không nhớ, bắt đầu cho in những tác phẩm cổ điển phương
Tây chúng tôi mới vỡ ra rằng chẳng cần có chủ nghĩa xã hội, các nhà văn vẫn viết.
Họp nhau quanh bàn trà,
chúng tôi đọc cho nhau nghe những tác phẩm chắc chắn chẳng được in, cùng nhau
thưởng thức hương vị ngây ngất của cái do mình học được tạo nên. Dĩ nhiên,
trong thời kỳ ấy chúng tôi phát minh ra được nhiều thứ – cả xe đạp lẫn máy hơi
nước.
Người chăm viết nhất, và
viết được nhiều nhất những bản thảo không bao giờ nghĩ tới được in là Hứa Văn Định.
Anh viết nhiều hơn bất cứ ai trong chúng tôi. Mỗi lần thấy anh lễ mễ khuân những
chồng bản thảo ra là chúng tôi hết hồn, nhưng may, anh chỉ rút ra từng tờ, đọc
từng đoạn. Những đoạn trích ấy thường rất hay, rất đẹp, có những khúc những đoạn
chẳng kém gì ở những nhà văn bậc thầy. Tiếc thay, chúng chẳng bao giờ xuất hiện
trong những cuốn sách được in. Và những bản thảo dở dang của anh nay cũng chẳng
còn.
Hoàng Tiến cũng là một
tay “căn cơ tán cần cù tảo”, theo cách nói đương thời. Trong bọn chúng tôi,
tính về sách được in thì anh đứng đầu bảng. Không ai biết anh viết cuốn gì, vào
lúc nào. Có hỏi đến thì anh làm như thể anh không hề biết đến sự tồn tại của
chúng. Chúng tôi chỉ được biết về chúng qua những quảng cáo trên bìa bốn (bìa
sau) của một cuốn sách nào đó.
Hứa Văn Định bình luận:
– Nó không tặng chúng
mình là phải thôi. “Vằn vện” cả ấy mà.
“Vằn vện” là từ ngữ của Hứa
Văn Định dành cho những sáng tác theo thời, hoặc theo đơn đặt hàng. Anh cũng có
những tác phẩm “vằn vện” của mình, nhưng anh không giấu biến đi như Hoàng Tiến,
thỉnh thoảng còn khoe chúng với nụ cười tinh quái:
– Đọc đi. Có khối chỗ tao
“đá” chúng nó đấy, đọc kỹ thì thấy.
Quả vậy, trong sách của Hứa
Văn Định ở đôi chỗ soi kỹ mới thấy những lời xỏ xiên bóng gió nhà cầm quyền hay
ra phết, nhưng các kiểm duyệt viên đầy tinh thần cảnh giác cách mạng đã không
nhận ra. Khốn nạn ở chỗ những cú đá móc ấy thâm nho quá, hiểm hóc quá, họ mà
còn cho qua được thì người đọc bình thường làm sao phát hiện nổi. Thành thử những
cú đá móc của anh bay vào khoảng không. Mông của những nhà lãnh đạo quốc gia
không bị một vết thâm tím nào.
Hoàng Tiến, ngược lại, chẳng
hề biết đá móc. Anh viết như một người lao động có lương tâm, cần mẫn, hết cuốn
này tới cuốn khác. Tôi biết được cái sự cần mẫn của anh là vì hồi ấy tôi đọc ngấu
nghiến bất kể sách gì, của ai, miễn nó rơi vào tay. Những cuốn sách ra đều đều
của anh, nói cho đúng, không để lại ấn tượng nào đặc biệt, bù lại chúng cho tôi
rất nhiều kiến thức vặt vãnh về cuộc sống thường nhật của anh bộ đội trong chiến
đấu, của đời sống thôn dã, bóng dáng những vùng đất nước mà mình đã từng qua.
Anh có những chi tiết rất đắt, những lời thoại rất sống, được gắn vào nhân vật
một cách thật ngon lành.
Rồi chúng tôi xa nhau một
thời gian thật dài. “Câu lạc bộ những kẻ bất trị” tan tác. Tôi đi tù. Kỳ Vân,
Vũ Huy Cương, Nguyễn Lộc, Bùi Ngọc Tấn, Huy Vân… cũng đi tù.
Thời ấy là thời của tổng
bí thư Lê Duẩn được trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ phò tá đã sáng tạo
ra cuộc trấn áp “nhóm xét lại chống Đảng”.
Mạc Lân, Dương Tường, Hứa
Văn Định may mắn không bị đi tù thì bị rút phép thông công. Sau khi bị công an
hành cho tới số, không một nhà xuất bản nào in các anh nữa.
Phù Thăng đi ở ẩn, anh có
cả một đàn vịt để mà chăn. Nguyễn Dậu trở thành anh cắt tóc, có lúc còn trải
chiếu ở vỉa hè bán giày dép…
Nói tóm lại, vật đổi sao
dời, lung tung hết cả. Gặp lại nhau sau những năm dài nằm hết nhà tù này đến trại
tập trung khác, tôi thấy Hoàng Tiến vốn ít nói còn trở nên ít nói hơn nữa. Anh
chăm chú nhìn tôi, ánh mắt thương cảm, đầu gật gù trong câm lặng.
Chúng tôi kéo nhau đi uống
cà phê Lâm. Tôi chẳng nhớ chúng tôi nói gì với nhau bên chén cà phê bít tất đen
như mực tàu ở nơi trở thành chỗ tụ hội của các hoạ sĩ. Các hoạ sĩ là những người
được hưởng sự bình yên nhiều nhất trong thế hệ chúng tôi. Họ vẽ, chứ không viết.
Các nhà lãnh đạo quốc gia ít nhất thì cũng đã thoát nạn mù chữ, nhưng không biết
xem tranh. Các hoạ sĩ có thế giới riêng của họ, nó không đụng chạm vào cái thế
giới hữu hình để bị xét nét.
Chỉ có một lần bức tranh
“Ô Quan Chưởng” bị tổng bí thư Trường Chinh bắt bỏ đi trong một triển lãm: “Hà
Nội gì mà không có người, có mỗi cái xích lô bỏ chỏng chơ bên hè. Giá mà xa xa
có mấy ống khói nhà máy thì còn treo được. Dẹp”!
Ngồi ở cà phê Lâm chúng
tôi uống trong im lặng, thảng hoặc có nói câu nào thì cũng những tiếng trống rỗng.
Cả một thế hệ đã học được cách che giấu ý nghĩ dưới vỏ bọc của thứ ngôn ngữ vô
hồn. Người hết tin ở người. Nghi ngờ trở thành một thành tố không thể tách rời
của cuộc sống.
Rồi chúng tôi lại xa
nhau, mỗi người một ngả. Với niềm tin mơ hồ rằng xa thì xa, rồi sẽ có ngày gặp
lại. Y như lời trong một bài hát thuở thiếu thời: “Mây gió mây tan hợp, nào có
xá gì những cuộc phân kỳ. Còn trời còn non sông. Còn người còn đoàn viên…” Từ
nước ngoài tôi vẫn dõi về quê hương. Mọi liên lạc đều đứt trong thời gian đầu.
Lập lại chúng rất khó khăn, nhưng vẫn lập lại được, từng ít một. Riêng với
Hoàng Tiến tôi đánh mất anh hoàn toàn.
Những tờ báo hiếm hoi từ
trong nước đến tay tôi không thấy tên bè bạn thuở nào. Nỗi chán nản bẻ gãy nhiều
ngòi bút hơn cả sự trấn áp của nhà nước chuyên chế. Hoặc nói cho chính xác hơn,
sự trấn áp bằng rất nhiều hình thức khác nhau đã tạo ra ra cái đầm lầy chán chường,
nơi những tài năng chìm nghỉm không sủi tăm. Cách triệt hạ trí tuệ như thế mới
thật là “siêu”.
Nhưng niềm vui cũng vẫn
có. Và có những niềm vui hoàn toàn bất ngờ.
Đùng một cái, tôi được đọc
một bài của Hoàng Tiến. Đó là năm 1992. Một anh cán bộ thư viện lưu lạc sang nước
Nga băng giá để buôn giày dép đã dắt lưng mang nó từ Việt Nam qua.
Bài viết “Tại sao tôi bỏ
đảng Mác-Lê để đi tìm Phật?” làm tôi bàng hoàng. Tôi không ngờ ông bạn hiền
lành năm xưa lại có một bước ngoặt đột ngột như vậy. Nhờ địa chỉ và số điện thoại
công khai dưới bài viết, tôi tìm lại được anh.
Hoàng Tiến bảo tôi:
– Tớ bị gọi là chống Đảng
như cậu rồi đấy! Sẽ lôi thôi, tớ biết, nhưng tớ đã chuẩn bị cho vợ con tình huống
xấu nhất rồi. Chúng ta không thể là con người đúng nghĩa nếu không dám tự do tư
tưởng.
Rồi anh cười sảng khoái.
Nghe tiếng cười của anh tôi biết anh đã sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả.
Anh vẫn còn nói tới đảng
nhiều lần, nhưng đó là một đảng đáng lẽ phải có, chứ không phải đảng hiện có.
Cách nói về đảng của anh gần với cách nói của Trần Độ ở giai đoạn đầu.
Cái sự chống đảng ở đây
phải hiểu như là sự rời xa, sự không theo nữa, chứ không phải với nghĩa đòi xoá
bỏ. Thái độ đó chỉ có thể giải thích bằng sự tình nghĩa rất Á Đông giữa những
người đã có lúc nào đó cùng đi chung một con đường.
Ở đây có sự lẫn lộn giữa
một bên là những con người và một một bên là cái tổ chức mà những con người kia
muốn hay không đã gắn với. Nhưng đảng cầm quyền, với tư cách một tổ chức, đồng
hoá nó với nhà nước, trước sau như một giữ vững quan điểm: “Kẻ nào không theo
ta, kẻ đó chống ta”.
Quan điểm địch ta này chiếm
địa vị thống trị từ thời Lê Duẩn. So với Lê Duẩn, Trường Chinh chỉ là anh học
trò. Mà Lê Duẩn có lý. Người nào bắt đầu bằng sự không theo đảng nữa chẳng
chóng thì chầy rồi cũng thành người chống đảng.
Tôi không vui bao nhiêu về
chuyện bạn tôi bỏ đảng tìm Phật. Tôi vui vì cuối cùng chúng tôi tìm lại được
nhau. Nói chung, tôi thích nhiều phần triết lý trong các tôn giáo, nhưng không
thích những hình thức tổ chức tôn giáo. Đã là tổ chức thì nó thay đổi được, tự
nó, hoặc do tay kẻ khác. Hoàng Tiến theo đạo Phật trong ý nghĩa triết học của
nó. Anh hàng giày viết nắn nót bên trên bài của Hoàng Tiến: “Có bốn điều vô
lượng: một là vô lượng từ, hai là vô lượng bi, ba là vô lượng hỉ, bốn là vô lượng
xả. Thấy trong lòng vui là vô lượng từ, dứt được điều khổ là vô lượng bi, vui
sướng khi thấy chúng sinh hết khổ trở thành sung sướng là vô lượng hỉ, mong
chúng sinh bỏ được oán niệm mà thành bình đẳng là vô lượng xả“.
Hoàng Tiến đã tìm. Và mừng
thay, anh đã thấy. Chúng tôi, kẻ trước người sau đều tự gỡ được cái khăn bịt mắt
mình để nhìn. Hậu quả của những tìm tòi cuộc sống trần thế quanh mình trong ánh
sáng thực chứ không phải trong ánh điện quảng cáo một thiên đường dưới thế lại
không cho phép Hoàng Tiến làm một phật tử thuần thành.
Con người thay đổi không
phải tự dưng. Những quan niệm về đời sống hình thành do những quan sát, những
trải nghiệm. Cái được tích tụ trong vô thức trở thành cái thức giống như hơi nước
biến thành mây, rồi từ mây mới có mưa rào.
“Con người lý tưởng của
những năm đầu cách mạng đã được thay thế bằng con người thực dụng, mưu mẹo, bè
cánh, tham nhũng để làm giàu, song hành với nó là một lối sống thời thượng: bồ
bịch, đặc sản, nhà lầu, ôtô Nhật xịn có điều hoà không khí. Vân vân và vân
vân…”, Hoàng Tiến viết thế.
Là người không thể điều
hoà với thân phận nô lệ, anh không điều hoà được với những gì mà đảng cộng sản
ngày hôm nay đang làm.
Anh không thể chịu đựng
thân phận nô lệ thêm lần nữa.
Bắt đầu bằng những bài viết
còn hiền lành, trong đó còn có cả những lời kêu gọi trở về với truyền thống
đích thực của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dần dần giọng anh trở nên lúc
thì gay gắt, lúc thì châm biếm, ngày một dữ dội, ngày một dứt khoát. Khi anh
châm biếm, tôi hình dung được nụ cười khinh khi trên môi anh. Điều đó, theo tôi
hiểu, có nghĩa là Hoàng Tiến đã khinh cái chính quyền hôm nay đến hết mức, có
nghĩa là mọi quan hệ giữa anh với nó đã được đặt dấu chấm hết. Và vì thế nó
không tha anh, không thể tha anh. Có tên bạo chúa nào lại tha tên bần dân dám
ngang nhiên phỉ nhổ nó giữa ban ngày ban mặt? Anh còn được an toàn cho tới hôm
nay không phải vì tên bạo chúa (hay một lũ bạo chúa) có lòng nhân, mà vì thời
đã khác xưa.
Hoàng Tiến là con người
lý tưởng. Đảng cộng sản mà anh theo gần như cả cuộc đời là một tổ chức thực dụng.
Cái tổ chức thực dụng ấy cần có quyền, để có lợi. Cái sự chiếm quyền để hưởng lợi
được che đậy bằng những khẩu hiệu hào nhoáng đã hiện nguyên hình khi vỏ bọc che
những lở loét của nó mục rữa. Mọi người trong cái xã hội dựng nên bằng lừa đảo
đều chung số phận: khi anh còn có tác dụng cho mục đích nắm quyền của nó thì nó
dùng. Khi anh nhìn ra mặt thật của nó thì nó tống anh ra.
Cuộc chia tay giữa Hoàng
Tiến với đảng cộng sản là tất yếu. Nó hơn là một cuộc chia tay ý thức hệ. Nó giống
như cuộc chia tay với người tình. Bi kịch của Hoàng Tiến, và của nhiều thế hệ
là ở chỗ đó. Nói gì thì nói, anh đã từng yêu nó.
Nếu như trong những bài
viết của Hoàng Tiến còn có cái để những người say máu chống cộng chưa hài lòng
thì đó là vì anh muốn nói với những người như anh, nhưng chưa “ngộ” được như
anh, chứ không phải nói với họ. Mục đích của anh là đánh thức những người còn
chưa tỉnh cơn mê.
Từ một người hiền lành cực
kỳ Hoàng Tiến bỗng trở thành người chiến sĩ chống lại chế độ chuyên chế với tất
cả sức mạnh của trái tim trong trắng bị lừa mị, bị bội phản, với ý thức rằng
anh phải làm việc đó không phải cho riêng anh mà cho đồng bào. Đến nỗi ở trong
nước có bạn đồng nghiệp đã dè bỉu anh, gọi anh là nhà văn chuyên sản xuất kiến
nghị.
Trong những bài viết của
mình, Hoàng Tiến đã gạt con người nhà văn trong anh qua một bên để làm nhiệm vụ
của một người dân.
Tôi hiểu bạn mình, anh không
thể làm khác.
Đối với anh lúc này việc
đấu tranh xoá bỏ chế độ chuyên chế quan trọng hơn viết văn.
Anh không muốn là cái gì
khác khi chưa là một công dân.
Paris 2006
No comments:
Post a Comment