Hôm nay là ngày 1/4/2020, ngày Cá tháng Tư (Poisson
d’Avril), tròn 1 năm tôi chính thức làm việc cho Công ty cổ phần kinh doanh ấn
phẩm văn hóa Tao Đàn Thư Quán (gọi tắt là Tao Đàn Thư Quán), cũng là ngày công
ty này chính thức mở cửa hoạt động.
Lẽ ra, sáng nay tôi sẽ đặt một cỗ bánh kem có dòng
chữ “Mừng Tao Đàn Thư Quán tròn 1 tuổi”, mang tới văn phòng công ty, rồi mời
các anh / chị / bạn: Thân Hà Nhất Thống, Nguyễn Đức Thiện, Nguyễn Thị Linh
Phương, Trần Hồng Lê, Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Cát Tiên… cùng cắt bánh, uống trà
và mừng công ty thôi nôi.
Tuy nhiên, do đại dịch viêm phổi Vũ Hán, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị “cách ly toàn xã hội” kể từ 0h ngày 01/4/2020,
nên công ty phải shut down, ai ở yên trong nhà người đó. Vì thế, dự định nói
trên của tôi bất thành.
Thế rồi, tôi quyết định dùng ngày đầu tiên trong chuỗi
ngày mà tôi thích gọi là “social distancing” (chữ của phương Tây, nghĩa là giữ
khoảng cách trong giao tiếp xã hội), hơn là dùng chữ “cách ly toàn xã hội” như
trong chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (bởi nó giống như bắt tội phạm bị bỏ tù),
để viết về những gì đã xảy ra trong 1 năm qua, kể từ khi tôi về chính thức đầu
quân cho Tao Đàn Thư Quán.
Có lẽ, tôi cũng nên viết về những việc xảy ra trước
đó, dẫn đến việc tôi rời khỏi cơ quan nhà nước (xin thôi việc, sau khi bị khai
trừ khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam) để ra ngoài (theo cách gọi của dân gian) làm
việc cho một công ty tư nhân, trước khi viết về những việc đã xảy đến trong 1
năm qua.
Thực ra thì tôi biết trước sau gì tôi cũng sẽ bị kỷ
luật, và trước sau gì tôi cũng sẽ rời khỏi cơ quan nhà nước để làm một người
hành nghề tự do. Tất cả là do tính cách của tôi.
1. TÍNH CÁCH CỦA TÔI
Tôi rất thẳng tính, khen chê rạch ròi, phê phán thẳng
thừng, sẵn sàng nói và viết những điều mà người khác cũng thấy, cũng biết, cũng
trăn trở, nhưng họ không dám / không muốn, hoặc không tìm được chìa khóa để mở
cái miệng của họ.
Chẳng hạn:
– Hồi học đại học năm thứ nhất (1985), tôi có học
chuyên đề “Lịch sử nhập môn” do cô Vũ Thị Việt dạy. Chuyên đề này phê phán các
nền sử học: thời cổ đại, thời phong kiến và thời tư sản, cho rằng đó là thứ sử
học lạc hậu và phản động; đề cao nền sử học Marxist, cho rằng đây là nền sử học
ưu việt nhất, vì nền sử học Marxist có 4 thuộc tính: [1] tính giai cấp; [2]
tính nhân dân; [3] tính khách quan; [4] tính khoa học. Khi nghe giảng như vậy,
tôi tranh luận với cô giáo rằng: “Nếu đã có tính giai cấp, thì không bao giờ có
tính khách quan nữa. Từ đó sẽ dẫn đến việc không có tính khoa học, bởi vì: giai
cấp chỉ là một tập đoàn người trong xã hội. Nếu chỉ đứng trên quan điểm / lợi
ích của một tập đoàn người này để phán xét toàn bộ lịch sử thì làm sao mà khách
quan được, trong khi xã hội có nhiều giai cấp / tập đoàn người có quan điểm, lợi
ích… mâu thuẫn, xung đột với nhau”. Cô Vũ Thị Việt quát tôi: “Em lo học đi, kẻo
không qua được môn này đâu, ngồi đó mà cãi lại cô giáo”.
– Tôi có tính cà khịa, hay giễu nhại những thói hư tật
xấu của thiên hạ (kể cả giễu nhại bản thân), và rất ghét những gì mà tôi gọi là
“tuyên truyền”, nên tôi hay bóc mẽ những kiểu “tuyên truyền” đó; hay giễu nhại
những thói hư tật xấu, trực tiếp và gián tiếp bằng ngôn từ hay chữ viết. Vì thế
mà rất nhiều người “cay” tôi, nhất là giới chức sắc. Có lần tôi “copy” câu nói
nổi tiếng thầy Vượng (giáo sư Trần Quốc Vượng) “cậu ấy tuy là đảng viên nhưng
mà tốt” khi thầy nhận xét một người nào đó, rồi tôi đổi thành “ông ấy tuy là
quan chức nhưng mà có học” để nhận xét một quan chức ở Huế trong một cuộc khai
mạc triển lãm tranh ở Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (26 Lê Lợi Huế),
trong lúc có nhiều vị tai to mặt lớn đang hiện diện. Câu nói “copy” của tôi hôm
đó khiến nhiều quan chức hàng tỉnh có mặt ở cuộc triển lãm tranh nhìn tôi như
muốn nuốt lốn.
– Tôi lại không ngại va chạm với quan chức, nên
trong nhiều cuộc găp mặt, họp hành, hội thảo…, tôi thường phát biểu, chỉ trích
thẳng mặt các quan chức, nhất là khi họ chỉ đạo sai trái, lại còn cậy quyền cậy
thế để bắt ép tôi hay đồng nghiệp của tôi phải làm theo những chỉ đạo ngu xuẩn
của họ. Chuyện này ở Huế có nhiều người chứng kiến, thậm chí người ta còn “phát
triển” thành những giai thoại, bịa thêm nhiều chuyện “trời ơi đất hỡi”, gắn vào
miệng tôi, rồi kết luận tôi là THẰNG NGẠO MẠN. Kỳ thực, tôi có NGẠO thiệt,
nhưng không NGẠO MẠN, vì NGẠO và NGẠO MẠN rất khác nhau. Bởi thế mà có một ông
(cựu) quan đầu tỉnh Thừa Thiên Huế gặp tôi trong tiệc cưới con gái của GS.TS.
Thái Kim Lan, ở một resort ven bãi biển Thuận An, đã nói với khách dự cưới rằng:
“Tay Sơn này toàn nói những lời rất chối tai”.
– Không những nói, mà tôi còn viết những điều “chối
tai” đó ra, rồi đăng báo. Năm 1996, khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt ban hành Nghị định
36/CP về lập lại trật tự đường thông hè thoáng trên toàn quốc, thì chính quyền
thành phố Huế nhân nghị định này, mở “chiến dịch” giải tỏa hè phố, mở rộng lòng
lề đường mà không phải bồi thường cho dân theo Luật Đất đai hiện hành. Khoảng
24 tuyến đường ở trung tâm thành phố Huế được chọn để triển khai “chiến dịch”.
Đợt đầu tiên họ triển khai chặt cây, dời cổng, mở rộng lòng đường, hè phố tại 5
con đường: Nguyễn Sinh Cung (ngang qua thôn Vỹ Dạ), Phan Chu Trinh, Bùi Thị
Xuân, Lê Duẩn và Nhật Lệ. Nhiều hàng quán, nhà cửa, phủ đệ, di tích… bị buộc phải
đập bỏ hàng rào, cổng ngỏ, dời sâu vào bên trong. Sau một tuần ra quân chỉnh
trang, bộ mặt đô thị Huế bị cày xới nham nhở, nhiều hàng cây đại thụ bị đốn trụi,
nhiều ngôi nhà mặt tiền bị cắt xén, nhiều cổ tích cả trăm năm tuổi, tự dưng bị
quy là “vi phạm Nghị định 36-CP mới ban hành”, nên chủ nhân phải đập bỏ cổng ngỏ,
hàng rào, dời lui vào bên trong. Tan hoang nhất là ở Vỹ Dạ. Vì thế mà dân Huế
lúc đó đã “chế” thơ Hàn Mặc Tử thành:
“Sao anh không về chơi thôi Vỹ
Nhìn cảnh hàng cau bị te tua
Nhà ai bữa trước nằm trong ngõ
Nay bỗng thênh thang hóa mặt tiền”
Nhìn cảnh hàng cau bị te tua
Nhà ai bữa trước nằm trong ngõ
Nay bỗng thênh thang hóa mặt tiền”
Tôi thấy xót xa quá, nên đạp xe đi khảo sát thực tế
mấy ngày, rồi chụp ảnh, phỏng vấn người dân và các nhà nghiên cứu, lấy tư liệu
để viết báo nhằm phản ánh việc lạm dụng Nghị định 36-CP của chính quyền thành
phố Huế. Khi tới khảo sát phủ Ba Cửa ở đường Phan Chu Trinh, tôi thấy anh Quý
Tiết, người thừa tự phủ thờ này, đang cho người đập tường rào, chuẩn bị di dời
3 cái cổng dẫn vào phủ, theo lệnh của phường. Tôi nói với anh Quý Tiết: “Anh tạm
ngưng việc này vài ngày, rồi thực hiện lệnh của thành phố sau cũng được, tôi
đang viết báo để kêu cứu đây”.
Hai ngày sau, báo Tiền Phong đăng bài viết “Nghị định
36 CP và lời khẩn cầu cho Huế” của tôi. Sau khi báo ra, tôi bị Giám đốc Trung
tâm BTDT Cố đô Huế la rầy, bị một số quan chức của chính quyền thành phố và tỉnh
đe nẹt đủ kiểu. Nhưng bài báo đã đến tay ông Nguyễn Hà Phan, lúc đó là Phó Chủ
tịch Quốc hội. Ông Phan đọc xong, gọi điện cho lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và
thành phố Huế hỏi rõ sự tình. Sau đó, có một đoàn cán bộ từ Hà Nội vào tìm hiểu,
xem xét và cuối cùng thì thành phố Huế được lệnh ngưng việc mở rộng lòng lề đường
này. Có khoảng 3.000 ngôi nhà nằm trên 24 tuyến đường dự tính nói trên đã được
lên phương án chỉnh lý mặt tiền, dời lui về phía sau, nhưng đã may mắn thoát nạn
nhờ bài báo của tôi.
Sau đó, bài báo “Nghị định 36 CP và lời khẩn cầu cho
Huế” của tôi được Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế trao giải Nhì mùa giải năm 1996.
Tuy nhiên, sau khi tôi chọn bài này để vào cuốn sách “Từ kinh đô Trà Kiệu đến cố
đô Huế” (tập hợp những phóng sự đăng báo của tôi trong các năm 1990 – 1996, do
Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế cấp phép xuất bản năm 1997), thì tôi lại gặp rắc rối.
Nguyên do là trong cuốn sách có in bài này và bài “Những nỗi niềm ca Huế trên
sông” (cũng là bài báo được giải báo chí của Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế mùa giải
năm 1994). Lúc sách phát hành thì tôi đi du học ở Nhật Bản. Vợ tôi bị sách nhiễu,
phải viết văn bản giải trình thay cho tôi, vì theo lý lẽ của một ông Phó Chủ tịch
UBND thành phố Huế lúc đó, thì: “Những bài viết đó đã làm xấu hình ảnh của
thành phố Huế, nên dù được giải báo chí, cũng phải bóc khỏi sách, mới được phát
hành”. Tuy vậy, cuốn sách này sau đó cũng được tiêu thụ hết, dù bị buộc phải
rút khỏi các hiệu sách một thời gian.
Điều thú vị là vào năm 2016, khi đến Thư viện Quốc hội
Mỹ ở Washington D.C sưu tầm tài liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam ở Biển
Đông và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, khi tôi thử gõ tên tôi trong danh mục
tác giả có sách lưu trữ ở fond Việt Nam, thì thấy tất cả những cuốn sách của
tôi đã xuất bản (đến lúc đó là 11 cuốn) đều có lưu trong Thư viện, trong đó có
cuốn “Từ kinh đô Trà Kiệu đến cố đô Huế”. Mỗi tựa sách của tôi được lưu trữ ít
nhất là 2 bản.
Khoảng năm 2001 – 2002, khi tôi đang làm Giám đốc Bảo
tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, Trung tâm BTDT Cố đô Huế tổ chức một cuộc họp để
thông qua đề án xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế mới, nằm trong khuôn
viên khu Cơ Mật viện, là nơi đóng trụ sở của Trung tâm BTDT Cố đô Huế. Đề án do
Công ty Mỹ thuật Trung ương thuộc Bộ VHTT thực hiện, với kinh phí khoảng 40 tỉ
(là khoảng đầu tư rất lớn vào thời điểm đó), lấy từ ngân sách của Bộ VHTT và
nguồn vốn của Trung tâm BTDT Cố đô Huế. Tôi được phân công là phản biện 1 nên đọc
rất kỹ và phát hiện đề án này có quá nhiều dối trá, phi lý, lãng phí, tốn kém
và nếu thực hiện thì sẽ phá hủy nhiều cây cổ thụ, phá bỏ di tích Cơ Mật viện và
trùng tu sai nhiều hạng mục di tích trong khu vực này. Vì thế, khi dự họp, tôi
phát biểu 30 phút vạch trần tất cả những điều sai trái, phi khoa học, đi ngược
nguyên tắc bảo tồn – bảo tàng, đặc biệt là vạch ra hàng chục khoảng kê sai, kê
khống để nâng vốn đầu tư của dự án. Sau cùng tôi bỏ phiếu chống phản đối thực
hiện dự án.
Phản biện 2 là nhà nghiên cứu Phan Thuận An, cũng
phát biểu chỉ ra những sai sót của đề án và bỏ phiếu chống. Vì hai phản biện 1
và 2 đều bỏ phiếu chống, nên những thành viên khác dù có bỏ phiếu thuận thì đề
án cũng không được thông qua. Lúc đó, tôi và chú An hứng nhiều chỉ trích của
lãnh đạo Trung tâm BTDT Cố đô Huế. Nhưng, sau khi Giám đốc Công ty Mỹ thuật
trung ương bị bắt bỏ tù cùng với Phó Giám đốc Sở VHTT tỉnh Điện Biên, vì tham
nhũng và công trình làm kém chất lượng trong dự án xây dựng tượng đài Chiến thắng
Điện Biên Phủ ở tỉnh Điện Biên, thì lãnh đạo Trung tâm BTDT Cố đô Huế mới hú
vía và cho qua chuyện tôi và chú An đã chống đối dự án.
Năm 2005, tôi cùng với nhà báo Minh Tự (báo Tuổi Trẻ)
tổ chức chuyên đề “Trùng tu di tích Huế: Mới hóa, trẻ hóa và rẻ hóa” gồm
nhiều bài viết đăng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật và báo Tuổi Trẻ hằng ngày, phê
phán việc trùng tu di tích sai / ẩu / lãng phí ở quần thể cố đô Huế. Tôi trực
tiếp đến hiện trường, yêu cầu đơn vị tu bổ phải cạo bỏ các lớp sơn son thếp
vàng mà họ phủ lên các biển ngạch bằng đá thanh trên các kiến trúc như: Ứng Tường
Môn, Chí Tường Môn, Dục Khánh Môn, Đốc Hựu Môn, Miếu Môn… ở khu vực Hưng Miếu –
Thế Miếu, vốn nguyên thủy là đá thanh tự nhiên không sơn phết.
Tôi cũng gửi kiến nghị bằng văn bản lên cơ quan chức
năng của tỉnh Thừa Thiên Huế, lên Bộ VHTT và Văn phòng châu Á – Thái Bình Dương
của UNESCO ở Bangkok (Thái Lan) để phản đối dự án xây dựng Life Resort trên đồi
Vọng Cảnh, dự án mà lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế ủng hộ và sẵn sàng trừng phạt
(bằng nhiều hình thức) đối với những ai lên tiếng phản đối. Trước sự phản đối của
nhiều trí thức, của một số quan chức có tấm lòng với di sản văn hóa Huế (trong
đó có tôi) và trước sự lên tiếng của công luận trong và ngoài nước, Thủ tướng
Phan Văn Khải đã có văn bản chỉ thị tỉnh Thừa Thiên Huế ngưng dự án này, buộc
lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế phải chấp hành.
Trên đây là một trong nhiều chuyện mà tôi đã “lên tiếng”
ở Huế. Điều này gây cho tôi rất nhiều phiền toái trong cuộc sống và trong công
việc.
Cuối cùng, vào ngày 1/7/2007, tôi nộp đơn từ chức
Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế để đi tìm công việc khác. Nhưng mãi đến
tháng 11/2007 đơn của tôi mới được chấp thuận, vì Sở Nội vụ Thừa Thiên Huế nói
rằng tôi đã theo học tiến sĩ nên phải ở lại Thừa Thiên Huế phục vụ trọn năm năm
sau khi tốt nghiệp (Tôi bảo vệ tiến sĩ vào tháng 11/2002). Mặc dù trong thời
gian đi học tiến sĩ, tôi tự trả học phí, không nhận tiền thưởng theo chế độ
khen thưởng của tỉnh, nhưng họ nói trong thời gian đi học tiến sĩ tôi vẫn hưởng
40% lương hàng tháng, nên tôi phải chấp hành.
Ngày 1/2/2008, tôi rời Huế, vào trường Đại học Phan
Châu Trinh ở Hội An, nhận chức Trưởng khoa Việt Nam học ở trường này. Tôi làm
trưởng khoa ở trường Phan Châu Trinh, xây dựng hoàn thiện bộ khung chương trình
giảng dạy môn Việt Nam học / Văn hóa – Du lịch, được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê
duyệt cho giảng dạy tại trường; tuyển chọn nhân sự, xây dựng đội ngũ giáo viên
cho khoa Việt Nam học của trường ĐH Phan Châu Trinh.
Đến tháng 1/1/2009 thì xin thôi việc ở đây, về đầu
quân cho Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng. Tuy nhiên trong
suốt các năm 2009, 2010 và 2011 tôi vẫn về lại trường Đại học Phan Châu Trinh để
dạy thỉnh giảng 4 chuyên đề cho sinh viên các khóa 1, 2 và 3 của trường này.
2. VÌ SAO TÔI BỊ KỶ LUẬT KHAI TRỪ ĐẢNG?
Đó là vì những status của tôi đăng trên FB cá nhân của
tôi. Nhưng trước hết cũng nói qua một chút việc tôi vào Đảng.
Tôi được Giám đốc Trung tâm BTDT Cố đô Huế nhận vào
làm việc lúc 9h ngày 20/1/1990, nhờ sự tiến cử của thầy Nguyễn Hữu Thông và chú
Mai Khắc Ứng. Lúc 10h, Giám đốc Thái Công Nguyên dắt tôi xuống Phòng Tổ chức –
Hành chính, nói với Trưởng phòng Hồ Văn Tỵ: “Làm thủ tục cho cậu ni vô biên chế”,
trước sự ngỡ ngàng của ông Trưởng phòng Tổ chức – Hành chính.
Ở Trung tâm BTDT Cố đô Huế, tôi trải qua các việc:
hướng dẫn viên, nghiên cứu viên, rồi được cử làm Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật
Cung đình Huế (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế) vào ngày 25/8/1995, lúc
tôi mới gần 28 tuổi. Ngày 1/1/2000, Giám đốc Trung tâm BTDT Cố đô Huế Thái Công
Nguyên lại bổ nhiệm tôi làm Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế. Khi đó
tôi chưa vào đảng.
Sau khi đi học ở Nhật về (vào năm 1998), tôi được
kêu làm hồ sơ vào đảng, nhưng tôi chần chừ, dù trước khi đi du học tôi đã được
học đối tượng đảng và đã làm bí thư Đoàn TNCS của Trung tâm BTDT Cố đô Huế
trong 2 nhiệm kỳ và 1 nhiệm kỳ làm phó bí thư (Đoàn Trung tâm Trung tâm BTDT Cố
đô Huế có gần 200 đoàn viên).
Lý do tôi chần chừ là tôi không thích dính vô chính
trị, chính em. Nhưng khi được gọi làm hồ sơ vào đảng lần thứ 2, thì tôi hỏi ý
kiến hai người: thầy Trần Quốc Vượng, là giáo sư đang hướng dẫn tôi làm luận án
tiến sĩ, và thầy Nguyễn Hữu Thông, thầy giáo hướng dẫn tôi làm luận văn tốt
nghiệp đại học và là ân nhân của tôi. Cả hai thầy đều khuyên tôi vào đảng. Thầy
Vượng nói: “Nếu cậu không có đảng, chúng nó cho cậu ra rìa, dù cậu là Giám đốc
bảo tàng. Cậu phải vào, phải tham gia cấp ủy và phải họp hành cùng chúng nó, phải
giành quyền ra quyết sách để phát triển bảo tàng. Chứ không có đảng thì không làm
gì được đâu”.
Tôi nghe lời hai thầy, vào đảng, nhưng tôi không làm
bí thư chi bộ ngày nào, dù lúc đó đã có chỉ đạo là thủ trưởng cơ quan phải là
bí thư chi bộ. Tôi để cho anh Nguyễn Tăng Khôi (nay đã mất) là Phó Giám đốc Bảo
tàng làm bí thư chi bộ, tôi làm phó cho anh ấy. Tôi cũng giao anh ấy vấn đề Tổ
chức – hành chính – nhân sự của bảo tàng, còn tôi phụ trách phòng Nghiên cứu và
phòng Kiểm kê – Bảo quản, vì tôi thích vào kho cổ vật nghiên cứu hơn.
Cho đến khi về Hội An, sau đó ra Đà Nẵng làm việc,
dù là Trưởng khoa, hay là Viện phó, tôi vẫn là 1 đảng viên chay mà thôi. Cho
dù, tôi đã học xong Cao cấp Chính trị, học xong Chương trình QLNN dành cho
Chuyên viên Cao cấp và đã là Chuyên viên Chính.
Trở lại với việc tôi bị kỷ luật do viết status trên
FB. Tôi bắt đầu “chơi” FB từ cuối năm 2013, khi đi học lớp bồi dưỡng kiến thức
QLNN dành cho Chuyên viên Cao cấp, dù lúc đó tôi chưa thi Chuyên viên Chính. Lý
do là lớp này mở ngay nơi tôi làm việc, tôi lại đang là Viện phó, đã học xong
Chương trình QLNN Chuyên viên Chính rồi, nhưng khi họ gọi đi thi thì tôi lại đi
Nhật dự hội thảo 1 tuần nên phải cancel, đang đợi lần thi tiếp theo. Viện trưởng
bảo: “Lớp này mở tại Viện, đằng nào anh cũng phải thi CVCC sau khi có CVC
nên đi học trước đi”.
Một hôm, học một chuyên đề gì đó, giảng viên cứ “nói
hươu, nói vượn” chả trúng trật gì cả, tôi bực mình nên vào internet để giết thì
giờ. Tình cờ tôi thấy cái tài khoản Facebook do cậu con trai mở cho cả nửa năm
trước đó, nhưng tôi đã quên khuấy nên chưa xài bao giờ. Nay thấy nó hiện ra
trên máy tính nên tò mò vào dùng thử. Thấy cũng hay hay.
Thế rồi tôi bắt đầu đăng lên FB những hình ảnh và
ghi chép ngắn về chuyến đi tới 11 quốc gia để tìm tài liệu liên quan đến chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà tôi (và sau
này có nhóm làm phim “Biển đảo Việt Nam – Nguồn cội tự bao đời cùng đi) trong
hai năm 2012 -2013.
Lâu dần thành quen, tôi đăng bài lên tài khoản FB của
tôi gần như hàng ngày. Bình quân mỗi ngày 1 status. Ngày nào có thời gian hoặc
có nhiều thông tin thời sự thì tôi đăng thêm từ 1 đến 2 status. Nội dung các
status tôi đăng trên FB thường thuộc các chủ đề sau:
– Liên quan đến các vấn đề lịch sử, văn hóa, cổ vật
Việt Nam và thế giới; bình luận, phân tích, chia sẻ, và phổ biến kiến thức về lịch
sử, văn hóa, giáo dục nước nhà cho bạn bè trên facebook.
– Liên quan đến các vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt
Nam đối với Hoàng Sa – Trường Sa và Biển Đông; phản bác những yêu sách phi pháp
của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển thuộc chủ
quyền của Việt Nam ở Biển Đông; tố cáo Trung Quốc trong âm mưu / hành động xâm
chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam; vạch trần bộ mặt nhân nghĩa, tình đồng
chí giả vờ của Trung Quốc để xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải và xâm hại chủ quyền
quốc gia của Việt Nam.
– Liên quan đến các vấn đề thời sự trong nước và quốc
tế, trong đó tôi thường phản biện những chính sách của các bộ, ngành ở trung
ương mà tôi cho là sai trái, có hại cho dân, cho nước.
– Vạch trần sự xảo trá, ngu dốt, tệ nạn tham nhũng…
của nhiều cán bộ các cấp ở nhiều địa phương trong nước và ở trung ương.
– Bày tỏ chính kiến của mình trước các tệ nạn được
phơi bày trên báo chí chính thống trong nước.
– Trao đổi chuyện đời thường, bày tỏ tình cảm với
gia đình, bạn bè, và học trò của tôi ở khắp mọi miền đất nước và nhiều nơi trên
thế giới.
– Viết truyện tiếu lâm để mua vui cho bạn bè.
Vì những nội dung đa dạng này nên facebook của tôi
có nhiều người đọc và nhiều người chia sẻ những thông tin mà họ thấy thích thú.
Trong đó có những status được rất nhiều người tương tác, chia sẻ như các status
tôi bày tỏ sự bức xúc của mình đối với các vấn đề / sự kiện, như:
– Trung Quốc kéo giàn khoan HY-981 vào vùng biển thuộc
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
– Formosa xả thải tiêu diệt biển miền Trung, trong
khi chính quyền từ trung ương, các bộ ngành liên quan và địa phương chậm xử lý,
khắc phục hậu quả. Khi xử lý thì rất mù mờ, khó hiểu, thậm chí có những biểu hiện
bao che cho tội ác của Formosa.
– Bão lụt gây thiệt hại tài sản của người dân, làm
thiệt mạng nhiều người ở khắp nơi, nhưng chính quyền nhiều cấp, nhiều nơi vẫn tổ
chức những sự kiện chính trị hoành tráng mà không có lời chia buồn tức thời đến
người dân, trong khi đó là việc nên làm và không tốn kém gì.
– Phê phán nhiều quan chức cấp cao như Bộ trưởng Bộ
Y tế, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường…
do ban hành những chính sách sai, do phát biểu vô trách nhiệm, vô cảm, sai trái
của họ.
– Phê phán những cá nhân được tôn vinh là gương sáng
về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, được báo đài của nhà nước
vinh danh, nhưng thực chất đây là những người có sai phạm nghiêm trọng, lừa
trên dối dưới, tham lam quyền lực, lũng đoạn chính trị nước nhà.
– Phê phán chủ trương chống tham nhũng của Đảng và
Chính phủ là hình thức hơn thực chất, chống nơi này nhưng tha thứ hoặc giảm nhẹ
ở nơi khác; xử lý kỷ luật ở nơi này rất nặng, trong khi ở nơi khác sai phạm lớn
hơn nhưng chỉ bị xử lý nhẹ, hoặc không bị xử lý.
– Góp ý những bất cập trong luật đất đai sửa đổi và
chỉ ra những hậu quả của nó; phản đối dự luật đặc khu và dự luật an ninh mạng.
– Lên tiếng về vụ sai phạm tày trời ở Thủ Thiêm…
– Phân tích sự “lợi bất cập hại” khi ASEAN tán thành
dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông với Trung Quốc (dự kiến thông qua tại
Clark, Philippines vào cuối năm 2017 khi Philippines là Chủ tịch ASEAN) mà
không giải quyết vấn đề vô hiệu hóa “đường lưỡi bò” theo phán quyết của Tòa Trọng
tài thường trực về vụ Philippines kiện Trung Quốc theo phụ lục 7 của UNCLOS,
trong khi lại tán thành tính ràng buộc pháp lý (legal binding) ở trong dự thảo
này.
…
Có những status tôi đăng đã có đến 2 – 3 ngàn tương
tác, hơn 1 ngàn chia sẻ.
Thế rồi, ngày 23/9/2017, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Đà
Nẵng triệu tập tôi, yêu cầu tôi giải trình những status mà họ cho là có dấu hiệu
vi phạm “Những điều đảng viên không được làm”. Họ copy 20 status tôi đăng trên
FB, bắt tôi giải trình lý do tôi viết những status đó. Sau khi tôi giải trình,
họ chốt lại 6 status, bảo đó là những vi phạm, cần xử lý.
Tôi đọc 6 status mà họ chốt, thấy đó là những status
tôi phê phán tham nhũng, chỉ trích quan chức bất tài; không thấy họ đề cập hàng
trăm status “chống Trung cộng” mà tôi đăng rất nhiều trên FB của mình.
Sau 3 phiên kiểm điểm ở 3 cấp: chi bộ Viện, đảng ủy
Khối các cơ quan nhà nước và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, cuối cùng, vào đầu tháng
2/2018, Uỷ ban Kiểm tra Thành ủy Đà Nẵng ra văn bản kỷ luật tôi với mức: Cảnh
cáo.
Sau đó, tôi tiếp tục viết và đăng tải các status
liên quan đến tình hình Biển Đông, quan hệ Việt – Trung, tiếp tục chỉ trích,
chê bai, khinh bỉ quan chức tham nhũng, bất tài…
VÀ VIỆC SẼ ĐẾN ĐÃ ĐẾN
Ngày 20/11/2018, tôi vừa nhận những lẵng hoa tươi thắm
của học trò cũ chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam, thì nhận được
giấy triệu tập đến Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Đà Nẵng để giải trình những status
có dấu hiệu vi phạm kỷ luật của Đảng.
Lần này họ yêu cầu tôi viết giải trình về động cơ, mục
đích khi đăng 3 status sau:
1. Status ngày 5/8/2018 đăng nội dung: HỎI VÀ “TRẢ LỜI”
– Ngày 2/8/2018, báo Tuổi Trẻ hỏi Phùng Xuân Nhạ: “Bộ
trưởng nhận trách nhiệm, RỒI SAO NỮA?”
– Ngày 4/8/2018, báo Người Lao động “trả lời
giúp”: Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ lên Tây nguyên dự khánh thành trường
dân lập Trạng Trình nói rồi: “Thớt có tanh tao, ruồi đổ đến.
Gang không mật mỡ, kiến bò chi?”. Vậy, theo quý vị Phùng Xuân Nhạ là ruồi,
hay là kiến? Nhưng theo tôi, y chắc chắn không phải là NGƯỜI.
2. Status ngày 18/8/2018 đăng nội dung “Tận cùng trơ trẽn” và dẫn link bài
báo “Chiêu thức chống phá mới của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa” của PGS, TS. Đỗ Mạnh Hòa (Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự), đăng
trên báo điện tử Công an nhân dân.
3. Status ngày 02/9/2018 có đăng hình vẽ hí họa, trong hình vẽ có câu: “73
năm trước lùa dân tụ tập đông người để nghe tuyên ngôn độc lập. 73 năm sau ngày
lễ Độc lập lại cấm tụ tập đông người”. Kèm theo hình vẽ trên là câu hỏi: “Có phải
như ri không mấy hia mấy chế?”.
Thực sự thì trong 3 status trên, tôi chỉ viết 2 cái
đầu, còn cái thứ 3 thì do một Facebooker khác tag vào FB của tôi. Tôi cho nó “nổi
lên” trên timelines và viết thêm câu hỏi: “Có phải như ri không mấy hia mấy chế?”.
Sau 3 vòng kiểm tra – giải trình, và 3 phiên kiểm điểm
ở các cấp tại: chi bộ Viện, đảng ủy Khối các cơ quan nhà nước và Ủy ban Kiểm
tra Thành ủy, kéo dài hơn 3 tháng, ngày 5/3/2019, họ yêu cầu tôi đến trụ sở
Thành ủy để kiểm điểm trước BCH Thành ủy Đà Nẵng.
Tôi đọc xong bản giải trình – kiểm điểm cho họ nghe
xong thì về. Sáng hôm sau (6/3/2019) tôi xách vali ra sân bay, bay qua Bangkok,
sau đó bay đến Surat Thani (Thái Lan) tham dự Hội thảo quốc tế “Trao đổi văn
hóa ở châu Á thông qua mạng lưới hải thương cổ đại” do Bộ Văn hóa và Du lịch
Thái Lan tổ chức.
Chiều 7/3/2019, Thành ủy Đà Nẵng ra quyết định khai
trừ tôi ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sáng 8/3/2019, tôi nhận tin khai trừ đảng do bạn Lê
Trọng Vũ ở Đà Nẵng nhắn tin qua messeger. Lúc đó, tôi chuẩn bị lên diễn đàn,
tham gia điều hành một phiên họp (phiên thứ 3 tại Hội thảo quốc tế này), cùng với
1 đồng nghiệp người Thái và 1 đồng nghiệp người Singapore. Cũng trong phiên họp
này, tôi đã trình bày tham luận của tôi, bàn về gốm sứ trong những con tàu đắm ở
Biển Đông đã được Việt Nam khai quật từ 1990 đến nay.
Sau khi trình bày tham luận xong, tôi vào internet
thì thấy tin tôi bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản Việt Nam được đăng trên hầu hết
các báo lớn ở Việt Nam. Ngày hôm sau thì nhiều tờ báo khác trên thế giới như:
BBC, RFI, RFA, VOA, AP, AFP, Der Spigel, Epod Times, Daily Mail, Global Times,
Weixin… đều có bài phân tích về chuyện này. Riêng BBC có đến hai bài dài lòng
thòng. Đặc biệt, mấy tờ báo Trung cộng rất khoái trá với việc tôi bị khai trừ đảng.
Tôi khá ngạc nhiên và không hiểu vì sao mà báo chí
trong nước và quốc tế lại quan tâm đến việc tôi bị khai trừ đảng nhiều đến vậy.
Riêng FB thì khỏi bàn. Vì quá nhiều bình luận, chia sẻ, chúc mừng có,
khen có, chửi bới có, hả hê có. Đủ cả.
Đặc biệt, trên wikipedia, ai đó đã nhanh chóng tạo
ra một tài khoản ghi tiểu sử của tôi, nhưng ghi trật lất rất nhiều chuyện. Tôi
rất muốn đính chính những thông tin sai lệch này, nhưng chưa có thời gian để
làm, cũng như không biết cách làm.
Từ ngày 9/3 đến 11/3/2019, tôi cùng 200 đại biểu
tham dự hội thảo nói trên đi điền dã ở các tỉnh Surat Thani, Phang Nga và
Karbi. Sau đó thì quay lại Bangkok và trở về Việt Nam.
– Sáng 13/3/2019, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Đà Nẵng mời
tôi lên trao quyết định khai trừ tôi ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Đến chiều ngày 18/3/2019, UBND Thành phố Đà Nẵng mời
tôi họp kỷ luật và cho phép tôi chọn lựa hình thức kỷ luật về chính quyền. Tôi
nói với hội đồng kỷ luật là tôi chấp nhận tất cả, quý vị thích mức nào thì cứ
ban hành quyết định, nhưng tôi đề nghị họ đồng ý cho tôi thôi việc như tôi đã gửi
đơn từ tháng 2/2019. Cuối cùng họ đồng ý.
VẬY LÀ TÔI CHẤM DỨT SỰ NGHIỆP VIÊN CHỨC CỦA TÔI, kéo
dài từ ngày 20/2/1990 đến ngày 31/3/2019, như một quyết định ban hành sau đó,
được ký bởi Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng.
3. MỘT NĂM QUA TÔI ĐÃ LÀM GÌ?
Khuya ngày 25/3/2019, tôi ra sân bay Đà Nẵng bay đi
Tokyo. Chuyến bay đáp xuống sân bay Narita vào lúc 7h00 sáng hôm sau. Tôi bắt
tiếp chuyến bay thứ hai bay lên Otaru ở Hokkaido. Anh bạn Đàm Đăng Lại đón tôi ở
sân bay, chở đi thăm thú một vài nơi ở Hokkaido rồi đưa tôi lên sơn trang
Niseko trên một ngọn núi phủ đầy băng tuyết ở lại, cùng với một họa sĩ người Nhật.
Tôi đã có một khoảng thời gian thư giãn tuyệt vời với hai người bạn (một lâu
năm, một mới quen) ở đây.
– Từ ngày 27 đến ngày 30/3/2019, tôi rong chơi ở
Sapporo và Otaru với các bạn Nguyên Chương, Lê Hồng Vân, Đàm Đăng Lại và Hiroko
cùng các con cái của những người bạn này. Thăm thú nhiều nơi, thưởng thức nhiều
đặc sản ẩm thực của Hokkaido.
– Sáng 30/3/2019, từ Otaru, tôi bay về Nagoya gặp
người bạn Nhật lâu năm của tôi là Nakamura Masami. Chúng tôi cùng đi chùa lễ Phật,
gặp gỡ những bạn bè cũ và mới của chúng tôi ở Nagoya, ăn uống vui chơi cùng với
họ.
– Sáng 31/3/2019, tôi và Nakamura bắt shinkansen từ
Nagoya về Tokyo. Tại đây, anh Thân Hà Nhất Thống, bạn Khánh Tường và anh Thân Đức
Thiện từ Việt Nam sang đã chờ hai chúng tôi ở khách sạn Hilton tại Tokyo.
– Ngày 1/4/2019, tôi chính thức đầu quân cho Tao Đàn
Thư Quán, nhưng bắt đầu công việc mới ở Tokyo, bằng việc cùng nhóm của anh Thân
Hà Nhất Thống và anh Nakamura Masami đi làm việc, gặp gỡ đối tác Nhật Bản
NIPPON KOEI; thăm trường ĐH Waseda được GS. Trần Văn Thọ mời ăn trưa trong
canteen của trường; thăm Hội các nhà Việt Nam học Nhật Bản, ăn tối với GS.
Shiraishi Masaya – Chủ tịch Hội; tham quan nhiều nơi ở Tokyo, Kyoto, Nara (gặp
gỡ thiền sư Kono trú trì chùa Daianj); dự lễ hội hoa anh đào ở nhiều nơi như đền
Yasukuni, hoàng cung Tokyo, sông Kandagawa…
– Sau 10 ngày rong ruổi ở Nhật Bản, ngày 5/4/2019,
tôi và anh Thống bay từ Tokyo về Đà Nẵng. Chiều hôm đó, chính thức làm việc tại
văn phòng công ty Tao Đàn Thư Quán.
Công việc chính của tôi ở Tao Đàn Thư Quán là tìm kiếm
các biên khảo hay về lịch sử, văn hóa, tư tưởng, văn học… để mua tác quyền, tổ
chức biên tập, dịch thuật và liên kết với các nhà xuất bản để xuất bản và phát
hành trong nước.
Trong 1 năm qua, tôi đã tổ chức bản thảo và xuất bản
được các đầu sách: CÕI VIỆT (Tác giả: Trần Đức Anh Sơn); MỸ THUẬT NGUYỄN (Tác
giả: Nguyễn Hữu Thông); TRO VÀ LỬA LẠNH (Cố tác giả: Hà Văn Thịnh); DINH TRẤN
THANH CHIÊM QUẢNG NAM (Tác giả: Đinh Trọng Tuyên – Đinh Bá Truyền); và ĐI TÌM
CHÂN DUNG VUA QUANG TRUNG (Tác giả: Nguyễn Duy Chính). Tất cả đều hợp tác với
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh để xuất bản và phát hành.
Ngoài ra, tôi còn thay mặt Tao Đàn Thư Quán phối hợp
với Hội Khoa học Lịch sử Đà Nẵng tổ chức một hội thảo khoa học quốc tế “100 năm
chữ Quốc ngữ ở Việt Nam, thu hút 28 tham luận của nhiều học giả, nhà nghiên cứu
trên thế giới gửi tham luận tham gia hội thảo và đón hơn 200 người quan tâm đến
dự hội thảo này trong 2 ngày 28-29/12/2019. Điều thú vị là hội thảo này là hội
thảo mà người tham gia gửi bài phải tự túc phương tiện đi lại để tham gia,
không được trả tiền nhuận bút bài viết, và hơn 300 / 360 cuốn kỷ yếu đã được
bán hết với giá 180.000đ/cuốn.
Cũng vì liên quan đến việc mua tác quyền, nên trong
năm qua, tôi đã đi Mỹ và Canada (cuối tháng 4 – đầu tháng 5/2019), Đức, Bỉ và
Pháp (tháng 9/2019) để gặp các tác giả, các nhà xuất bản để ký kết hợp đồng mua
bản quyền in sách.
Tôi cũng được Đại học Hamburg (Đức) mời đến thuyết
trình ở Viện Á – Phi và Phân khoa Việt Nam học của trường này 2 topics: “Bãi
Tư Chính và mưu toan tranh giành chủ quyền của Trung Quốc: Lịch sử và diễn biến
hiện tại”; và “Vùng đất Quảng Nam với sự ra đời của chữ Quốc ngữ (vào tháng
9/2019). Tôi được Santa Casa mời sang Lisbon (Bồ Đào Nha) dự Hội thảo “Người Bồ
Đào Nha với di sản chữ Quốc ngữ ở Việt Nam” tổ chức (vào tháng 9/2019); được mời
qua Seoul (Hàn Quốc) dự hội thảo “Thực phẩm lên men trong văn hóa ẩm thực ở các
nước ASEAN và Hàn Quốc”, do Viện Nghiên cứu và Quảng bá thực phẩm Hàn Quốc và Bộ
Nông nghiệp và Thực phẩm Hàn Quốc đồng tổ chức (vào tháng 11/2019). Sau đó thì
đưa cả nhà gồm tôi, bà xã và 2 con quay lại Seoul để du lịch và đón Tết Dương lịch
(từ 31/12 đến 7/1/2020).
Hiện tại, tôi đang tổ chức biên tập 3 bản thảo: TỪ
ĐIỂN NHÀ NGUYỄN (2 tập, của Võ Hương-An), PHAN THUẬN AN VỚI HUẾ (3 tập, của
Phan Thuận An) và CỘI RỄ (2 tập, tiểu thuyết của Alex Haley) và biên dịch cuốn
sách NGHỀ THUỐC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM (từ tiếng Anh, của GS.TS. Michell
Thompson, ĐH Southern Connecticut, Mỹ).
Ngoài ra, tôi cũng đang viết và chỉnh sửa bộ sách
RONG RUỔI THỰC LỤC (3 tập, mà tập 1 đã in 2 lần vào 2008 và 2013) để kịp in vào
cuối mùa hè này.
4. VĨ THANH
Chiều ngày 29/3/2020, tôi nhờ một đồng nghiệp cũ ở
Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng đến giúp tôi khai thuế thu
nhập cá nhân để nộp cho Cục Thuế Đà Nẵng theo quy định, kịp thời hạn trước ngày
31/3. Cô ấy giúp tôi hoàn thiện hồ sơ thuế và đi nộp giúp vào ngày 30/3.
Trước khi về, cô ấy nói: “Có 1 chị nhân viên ở
phòng an ninh nội bộ công an Đà Nẵng hay điện thoại cho em hỏi về anh. Chị ấy hỏi
là liệu anh có đi Mỹ hay không, vì nghe nói con anh đang học bên Mỹ cả hai đứa?”.
Tôi nói: “Con anh đi học là việc của tụi nó. Còn anh ở đây sống và làm việc
là chuyện của anh. Chẳng liên quan gì với nhau cả”.
Thực tế, trước khi xảy ra vụ kỷ luật, tôi có nộp đơn
xin làm giảng viên của Trường ĐH Fulbright ở Sài Gòn. Có 3 người tiến cử tôi
vào trường này, trong đó có TS. Tạ Văn Tài (cựu GS trường Luật Harvard, Mỹ),
PGS.TS. Erik Harm (Trưởng khoa Nhân học, ĐH Yale, Mỹ) và 1 PGS ở Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam. Hồ sơ của tôi được chọn vào vòng trong, trường gọi
tôi đi phỏng vấn. Nhưng đúng lúc đó thì xảy ra chuyện tôi bị kỷ luật đảng, nên
tôi chủ động gửi e-mail đến ban tuyển chọn, xin dừng việc phỏng vấn tuyển dụng
làm giảng viên trường ĐH Fulbright.
Sau đó, thông qua tiến cử của GS. Ben Kiernan (Trưởng
khoa Lịch sử, ĐH Yale, Mỹ), GS. Jann Pasler ở Đại học California – San Diego
liên lạc với tôi mời tôi tham gia một dự án nghiên cứu về văn học và âm nhạc thời
thuộc địa ở các nước thuộc địa của Pháp. Lúc đầu tôi rất hào hứng, nhưng khi
nghe GS. Jann Pasler nói là nếu tham gia dự án này, tôi phải sang Paris làm việc
3 năm nên tôi lưỡng lự, vì tôi học tiếng Pháp chỉ có 2 năm, đã ngưng sử dụng từ
hồi ra tốt nghiệp đại học (1989) đến giờ, nên bây giờ học lại tiếng Pháp và sử
dụng để làm việc, để viết báo cáo nghiên cứu Post-Doc thì quá gian nan. Nên tôi
cũng xin thôi.
Trước mắt, tôi sẽ tập trung làm sách cho Tao Đàn Thư
Quán, có hội thảo nào hay hay thì tham gia. Có trường nào trong và ngoài nước mời
giảng chuyên đề thì nhận lời giảng dạy cho đỡ nhớ không khí giảng đường.
Trong 29 năm làm viên chức, tôi có tham gia giảng dạy
(thỉnh giảng) khoảng 15 năm, có năm giảng đến 540 tiết.
Tôi cũng đã hướng dẫn thành công 10 học viên cao học
làm luận văn Thạc sĩ, trong đó có 8 luận văn viết bằng tiếng Anh. Tôi cũng viết
được một số kha khá bài nghiên cứu in ở trong và ngoài nước và xuất bản hơn chục
đầu sách trong mười mấy năm qua.
Tôi cũng đã từng đoạt nhiều học bổng du học của
chính phủ nước ngoài, để du học ở: Nhật Bản (1997 – 1998); Hàn Quốc (1999); Đức
và Pháp (2004), và sau cùng là học bổng của Chương trình học giả Fulbrighter
(do Bộ Ngoại giao Mỹ cấp), trở thành Fulbright scholar ở Đại học Yale danh giá
của nước Mỹ (2015 – 2016). Vậy nên, tôi nghĩ là mình cũng có thể nghiên cứu hay
giảng dạy được và sẵn sàng tham gia những công việc này khi có điều kiện.
Tôi đã bán mảnh đất mà vợ chồng tôi dành dụm tiền
nong, mua được ở Đà Nẵng, vui vẻ ở nhà chung cư (nhà thuê của nhà nước) để lấy
tiền cho con trai đi du học ở Mỹ. Nay cháu sắp tốt nghiệp. Con gái của tôi đang
học lớp 12 ở Đà Nẵng cũng đã được 1 trường ở Mỹ thông báo sẽ cấp học bổng 80%
cho 4 năm học đại học, bắt đầu từ năm học tới (nhưng đang có đại dịch viêm phổi
Vũ Hán nên gia đình tôi chưa biết tính sao đây).
Nếu cả hai con đi du học, rồi kiếm được việc làm
trong môi trường thích hợp, thì tôi và bà xã coi như mãn nguyện, vì đã đầu tư
đúng hướng.
Tôi cũng đã từng đi đến / đi qua (vì nhiều mục đích:
du học, hội thảo, công tác, du lịch…) hơn 30 quốc gia ở châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ,
Úc (nhưng chưa tới châu Phi và Nam Mỹ). Riêng nước Mỹ tôi đã đi đến 21/50 tiểu
bang. Lang thang nước ngoài chừng nớ cũng đủ rồi, nên tôi chưa có ý định cư ở
đâu ngoài Việt Nam.
Tôi cũng đã viết sẵn 1 bản dự thảo di chúc, trong đó
có mấy điểm chính:
– Sau khi qua đời, tôi sẵn sàng hiến toàn bộ những bộ
phận thân thể còn dùng được của tôi cho ai cần.
– Tôi không có nhu cầu xây mộ sau khi chết. Hãy hỏa
thiêu và đem tro cốt ra thả ở nơi sông Hương hòa với biển.
– Tôi có 3 tủ sách lớn, để ở ba nơi: Nhà tôi ở Huế,
chung cư ở Đà Nẵng và văn phòng công ty Tao Đàn Thư Quán. Vì thế, tôi sẽ hiến tặng
sách để ở văn phòng công ty để mở Thư viện Tao Đàn Thư Quán phục vụ cộng đồng.
2 tủ sách còn lại, tùy hai con tôi quyết định.
Khi đã chuẩn bị mọi thứ khá kỹ lưỡng thì tôi yên tâm
sống, làm việc và trải nghiệm những vui thú của cuộc đời, mà không phải ai cũng
được may mắn có được như tôi. Hay nói như một cô học trò cũ của tôi: “Cuộc đời
của thầy rất thú vị. Em thích a rứa”.
Đúng vậy! Cuộc đời tôi rất thú vị và tôi vẫn đang thấy
phía trước là một bầu trời vô cùng tươi đẹp.
NGƯỜI NƯỚC HUỆ (Viết nhân tròn 1 năm làm việc ở Tao
Đàn Thư Quán trong hoàn cảnh social distancing ngày thứ nhất)
No comments:
Post a Comment