February
20, 2018 12:18 AM
1.-
BỘ ĐỘI CỘNG SẢN BỊ ĐẨY LUI
Không
tổ chức được cuộc tổng khởi nghĩa (chữ của cộng sản), Việt cộng còn bị quân đội
Việt Nam Công Hòa (VNCH) và Đồng minh phản công mạnh mẽ, đẩy lui ra khỏi Huế.
Dù
bị bất ngờ, quân đội VNCH bắt đầu phản công vào mồng 3 Tết (1-2-1968). Ngày mồng
5 Tết (3-2), các chiến sĩ Nhảy Dù VNCH tái chiếm cửa An Hòa. Cũng trong ngày nầy,
Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ đổ bộ ở Bến tàu Hải quân bên hữu ngạn (phía
Đài phát thanh Huế), đến đóng tại Bộ Chỉ huy MACV.
Lo
ngại cánh quân Hoa Kỳ từ hữu ngạn kéo sang tả ngạn (phía Thành nội), cộng quân
đánh sập cầu Trường Tiền tối mồng 9 Tết (7-2-1968).
(Hình
từ Internet)
Ngày
14-2, tình hình hữu ngạn được xem là yên ổn, chỉ còn bộ chỉ huy của Thân Trọng
Một trốn tránh tại vùng lăng Tự Đức cho đến ngày 25-2. Khi tình hình hữu ngạn
được ổn định, lực lượng Nhảy Dù rút vào nam, và các chiến sĩ TQLC đến thay thế.
Ngày
12-2, TQLC/VNCH và TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên bến Bao Vinh, nằm trên bờ sông Gia Hội,
gần đồn Mang Cá, cùng mở “chiến dịch Sóng Thần 739/68” ngày
14-2, tảo thanh quân cộng sản (CS) trong Thành nội.
Trận
chiến càng ngày càng ác liệt, có khi TQLC và bộ đội CS chỉ cách nhau vài chục
thước, giành nhau từng căn nhà. Ngày 18-2, TQLC Hoa Kỳ chiếm được cửa Đông Ba
(đường Mai Thúc Loan). Cộng quân đóng trong Thành nội chỉ còn liên lạc với cánh
quân Gia Hội của họ bằng cửa Thượng Tứ.
Trước
nguy cơ thất bại, cộng quân tính chuyện rút lui. Ngày mồng 8 Tết (6-2), CS bắt
đầu di chuyển thương binh, tù binh, chiến lợi phẩm ra khỏi Huế. Lúc đó, tại miền
núi phía tây tỉnh Quảng Trị, cộng quân đã chiếm được Làng Vei, một vị trí chiến
lược ở tiền đồn Khe Sanh ngày 7-2. Phi cơ Hoa Kỳ tái oanh tạc vùng phụ cận Hà Nội
ngày 14-2, nên ngày 15-2, Quân uỷ Trung ương ở Hà Nội, gởi vào đảng uỷ CS Thừa
Thiên Huế một công điện nội dung như sau: “Phải giữ Thành nội, không được
rút ra ngoài để phục vụ nhiệm vụ chính trị chung cả nước.” (Chính Đạo,
Mậu Thân 68: thắng hay bại, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr. 146.)
Tình
hình càng lúc càng bất lợi cho CS. Lê Minh, bí thư Thừa Thiên Huế, giữ trách
nhiệm trực tiếp mặt trận Huế, tỏ ý muốn rút lui trong cuộc họp ngày 19-2, nhưng
còn phải chờ lệnh trên.
Quân
đội VNCH và Đồng minh Hoa Kỳ đẩy dần quân CS ra khỏi Thành nội. Sáng sớm 23-2,
lá cờ VNCH tung bay trên kỳ đài, thay thế cờ của MTDTGPMNVN. Quân đội VNCH và Đồng
minh có thể nói đã làm chủ được tình hình Thành nội từ đây.
(Hình
từ Internet)
Phía
cộng sản, “về sau có lệnh: chuẩn bị rút lui lên vùng rừng núi phía Tây,
cố bảo toàn lực lượng, mang theo đủ vũ khí chưa sử dụng đến. Khi lệnh rút lui
ban bố vào đêm 25 tháng 2, một không khí có phần hoảng loạn diễn ra…” (Thành
Tín [Bùi Tín], Mặt thật, hồi ký chính trị, California: Nxb. Saigon Press, 1993,
tr. 184.)
Gia
Hội là khu vực hoàn toàn dân sự, không có cơ sở quân sự, cơ sở hành chánh hay
kinh tế gì quan trọng. Những nhà chỉ huy hành quân VNCH cũng như Đồng minh nghĩ
rằng cần phải thanh toán trước những cứ điểm đầu não do bộ đội cộng sản đang
chiếm đóng trong Thành nội, thì tức khắc cộng quân ở vùng Gia Hội sẽ tự tan
hàng rút lui.
Mãi
đến ngày 22-2, hai tiểu đoàn Biệt Động Quân của Quân lực VNCH mới được tung vào
Gia Hội để đẩy lui cộng quân. Vì quân đội VNCH đến giải tỏa trễ, và cộng sản
chiếm đóng vùng Gia Hội lâu ngày, nên cộng sản có thời gian tàn sát đồng bào
nơi đây nhiều nhất trong thành phố Huế.
2.-
CỘNG SẢN TÀN SÁT ĐỒNG BÀO
Trong
lúc hai bên đánh nhau, thống kê ước lượng cho thấy tại mặt trận Huế, quân đội
VNCH có 384 tử trận, 1, 830 bị thương; Bộ binh Mỹ 74 tử trận, 507 bị thương; Thủy
quân lục chiến Mỹ 142 tử trận, 857 bị thương, Bộ đội Bắc Việt và Việt cộng khoảng
5,000 tử trận, số bị thương không tính được. (David T. Zabecki, “Huê, Battle of
(1968)”, đăng trong Encyclopedia of the Vietnam War, a political, Social, and
Military History, California: Volume 1, Spencer C. Tucker chủ biên, 1998, tr.
304.)
Trong
chiến tranh, chiến sĩ các bên lâm chiến bị thương vong là chuyện không thể
tránh khỏi, nhưng trong biến cố Mậu Thân (1968) tại Huế, rất nhiều nạn nhân bị
cộng quân giết hại thảm khốc trong thời gian CS tạm chiếm Huế, nhiều nhất là
các nhân viên chính quyền, cảnh sát, binh sĩ và sĩ quan Quân lực VNCH đang nghỉ
Tết, không ở vị trí chiến đấu, và một số khá lớn thường dân không cầm súng, chỉ
chạy tỵ nạn chiến tranh.
Cho
đến nay, không ai có thể kiểm kê đích xác số thường dân cũng như số người không
ở vị trí chiến đấu (đang nghỉ Tết) bị phía CS giết hại. Theo sự phân tích của
Nguyễn Trân, một nhà hoạt động chính trị thời VNCH, đưa ra trong quyển hồi ký của
ông ta thì:
“Về
phía dân chúng, có 5,800 người chết, trong đó có 2,800 người bị Việt cộng giết
và chôn tập thể: 790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán cái tội
“cường hào ác bá”, 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, hằng trăm thanh niên
tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức
và vợ, và một số Phi Luật Tân.” (Nguyễn Trân, Công và tội, những sự thật
lịch sử, Nxb. Xuân Thu, California,1992, tr. 642.)
Trong
sách Thảm sát Mậu Thân ở Huế, tuyển tập – tài liệu, Phong trào Giáo dân Việt
Nam Hải ngoại (PTGDVNHN), California, in lần thứ 2, 1999, tt. 85-86, tt. 94-99,
và tt. 135-136 thì: Hai linh mục Pháp là: Urbain, 52 tuổi và Guy 48 tuổi bị bắt
ở tu viện Thiên An và bị dẫn đi ngày 25-2; sau xác tìm được ở gần lăng Đồng
Khánh. Bốn người Đức bị giết là: bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, bác sĩ
Raimund Discher, và bác sĩ Alois Alterkoster. Ba bác sĩ Tây Đức tình nguyện đến
dạy tại Đại học Y khoa Huế. Cả 4 người nầy đều bị bắt ngày 5-2-1968.
Những
con số trên đây có thể sai biệt chút ít, nhưng chắc chắn số thường dân cũng như
số người nghỉ phép nhân dịp Tết tại Huế, bị giết chôn trong các hầm tập thể rất
nhiều. Sau đây là thống kê tóm tắt số hài cốt tìm được trong các mồ chôn tập thể
sau khi cộng quân rút lui do một bác sĩ người nước ngoài ghi lại. (PTGDVNHN,
sđd. tr. 222.) Số liệu nầy rút ra từ sách The Vietcong Massacre at Hue của nữ
bác sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage Press, 1976. Lúc xảy ra biến cố Mậu
Thân, bà có mặt tại Huế, và viết lại những điều tai nghe mắt thấy.
3.-
NHỮNG NGÔI MỘ TẬP THỂ
Dưới
đây là địa điểm những ngôi mộ tập thể ở phụ cận thành phố Huế và số lượng xác nạn
nhân tìm thấy được. (Trích PTGDVNHN, sđd. tr. 131.)
ĐỊA
ĐIỂM VÀ SỐ NẠN NHÂN(trong
ngoặc):
Trường
Gia Hội (203 người),
Chùa
Theravada [Gia Hội] (43),
Bãi
Dâu [Gia Hội] (26),
Cồn
Hến [Gia Hội] (101),
Tiểu
Chủng Viện [số 11 đường Đống Đa] (6),
Quận
Tả ngạn (21),
Phía
đông Huế (25),
Lăng
Tự Đức, Đồng Khánh (203),
Cầu
An Ninh (20)
Cửa
Đông Ba (7),
Trường
An Ninh Hạ (4),
Trường
Văn Chí (8),
Chợ
Thông (102),
Lăng
Gia Long (200),
Chùa
Từ Quang (4),
Đồng
Di (110),
Vinh
Thái (135),
Phù
Lương (22),
Phú
Xuân (587),
Thượng
Hòa (11),
Thủy
Thanh – Vinh Hưng (70),
Khe
Đá Mài (428).
Tổng cộng: 2,326 người.
Tổng cộng: 2,326 người.
4.-
TRƯỜNG HỢP HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Trong
cuộc tàn sát tại Huế, cảnh tượng dã man nhứt là vụ Việt cộng tùng xẻo thiếu tá
Từ Tôn Khán, tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn (XDNT) tỉnh Thừa Thiên, được một
tác giả ở Huế mô tả như sau: “Thiếu tá tá Từ Tôn Khán, tỉnh đoàn trưởng Xây dựng
Nông thôn Thừa Thiên, nhà ở 176 Bạch Đằng (gần cầu Đông Ba Huế), trốn trong nhà
đã ba, bốn ngày. VC [Việt Cộng] vào nhà bắt vợ con ra đứng giữa sân và tuyên bố
nếu ông Khán không ra trình diện thì sẽ tàn sát cả nhà. Vì thề ông phải ra nộp
mạng. VC đã trói tay ông, cột ông vào cọc giữa sân, xẻo tai, cắt mũi, tra tấn
cho đến chết, thật là dã man kinh hoàng. (Nguyễn Lý Tưởng, “Mậu Thân ở
Huế”, PTGDVNHN, sđd. tr. 89.).
Ở
đây, xin thêm vài chi tiết: Đường Bạch Đằng nằm ở Gia Hội, thuộc thành phố Huế,
bắt đầu từ cầu Gia Hội (nối chợ Đông Ba với Gia Hội) đi về hướng chùa Diệu Đế,
dọc theo bờ sông Gia Hội. Đường nầy thời nhà Nguyễn gọi là đường Hàng Đường,
song song với đường Hàng Bè tức đường Huỳnh Thúc Kháng, bờ bên kia sông Gia Hội.
Theo
nguồn tin khả tín từ những cán bộ XDNT, nhà của thiếu tá Khán do cha mẹ để lại,
là một ngôi nhà xưa, xây dựng từ thời Pháp, có một cái trần nhà rất kín đáo.
Thiếu tá Khán cùng ba cán bộ XDNT lên trốn trên trần nhà. Viêt cộng không tìm
ra. Cũng theo nguồn tin của giới cán bộ XDNT, khoảng tuần sau, Hoàng Phủ Ngọc
Tường dẫn du kích CS đến nhà, đe dọa sẽ giết cả gia đình nếu thiếu tá Khán
không ra trình diện. Vì thương yêu vợ con, thiếu tá Khán phải trình diện ngày
10-2-1968 (12 tháng Giêng năm Mậu Thân) và bị tùng xẻo thê thảm như tác giả
Nguyễn Lý Tưởng đã mô tả. Khi hy sinh, thiếu tá Khán 37 tuổi (sinh năm 1931), để
lại vợ trẻ và 7 con gái, em lớn nhứt 12 tuổi, em trẻ nhứt mới được vài tháng.
Về
phía Hoàng Phủ Ngọc Tường, hiện nay Tường phủ nhận việc có mặt tại Huế trong biến
cố Tết Mậu Thân, nghĩa là Tường tự cho rằng Tường không liên hệ đến các vụ thảm
sát ở Huế. Tuy nhiên, có nhiều chứng liệu cho thấy Tường có mặt tại Huế trong Tết
Mậu Thân, hoạt động rất kín đáo.
Đầu
tiên là bút ký “The Vietcong Massacre at Hue” của nữ bác sĩ
Elje Vannema, người Hòa Lan, có mặt ở Huế trong thời gian nầy. Bút ký của bà do
Nxb. Vintage Press ấn hành tại New York năm 1976, và được báo chí Việt Nam Hải
ngoại dịch lại dưới tựa đề “Thảm sát Tết Mậu Thân”. Phong trào GDVNHN
đăng lại đầy đủ bản dịch bài viết của Elje Vannema trong tuyển tập – tài liệu
Thảm sát Mậu Thân ở Huế đã dẫn trên.
Trong
bút ký, có đoạn bác sĩ Elje Vannema kể lại rằng: “Tòa án ở Tiểu chủng
viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh nầy tốt nghiệp đại học Huế và là cựu
lãnh tụ sinh viên trong Ủy ban Phật giáo chống chính quyền trước đây.” (PTGDVNHN,
sđd. tr. 125.) Tài liệu của nữ bác sĩ Elje Vannema xuất bản năm 1976 và được dịch
qua tiếng Việt, nên có thể Tường đã đọc bút ký nầy, hay nghe bạn bè đề cập đến
bút ký nầy. Tường hoàn toàn không lên tiếng cải chính.
Sau
đó, vào năm 1981, lần đầu tiên trả lời cuộc phỏng vấn quốc tế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường hãnh diện cho đài WGBH-TV Boston (Hoa Kỳ) biết rằng Tường có mặt ở Huế
trong vụ CS tấn công vào Tết Mậu Thân. Tường còn kể rằng lúc ở Huế, có lần vào
buổi tối, Tường đi trên một con hẻm lầy lội, tưởng là bùn, nhưng khi bấm đèn
lên, thì thấy toàn máu. Như vậy chính Tường xác nhận Tường đã có mặt ở Huế
trong vụ Mậu Thân.
Lời
phát biểu của Tường bị đả kích nặng nề. Tường bị bà con Huế kết án là người con
xứ Huế đã phản bội Huế, dẫn giặc về giết đồng bào Huế. Có thể vì bị đả kích nhiều
quá, nếu không muốn nói là bị nguyền rũa nhiều quá, mười sáu năm sau, trong cuộc
phỏng vấn của Thụy Khê trên đài RFI (Paris) năm 1987, Tường lại cải chính, và
nói rằng Tường bị vu oan, vì Tường không có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân. Thật
lạ lùng! Chính Tường nói ra là đã về Huế, dẫm lên máu đồng bào, rồi Tường lại
hô hoán là bị vu oan. Hám danh chi ác dữ, vu oan cho chính mình?
Ngoài
vụ án thiếu tá Từ Tôn Khán mà những cán bộ XDNT kể lại ở trên, ở Huế còn lan
truyền câu chuyện giáo sư lão thành tên T. là thầy của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bị
du kích CS bắt, đưa đến gặp Tường. Theo mưu kế CS dùng để lừa dân chúng, Tường
thả giáo sư T. ra về, và yêu cầu thầy kêu gọi các con của thầy ra trình diện để
được “cách mạng khoan hồng”, nhưng cả gia đình nầy bỏ trốn luôn.
Có
người còn kể rằng Tường tìm gặp một vài giáo chức ở Huế để vận động thành lập “Hội
(hay Liên đoàn) giáo chức yêu nước”hoặc “Hội giáo chức ly khai” theo
kiểu Nguyễn Đắc Xuân lập hội “Quân nhân Sư đoàn 1 ly khai”. Đây là
nhiệm vụ của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Và Hòa Bình tại Huế do Tường
làm tổng thư ký. Tuy nhiên các giáo chức sợ liên hệ đến chuyện chính trị nên kiếm
cách thoái thác. Dự tính của Tường chưa thực hiện được thì CS bỏ chạy. Chuyện nầy
râm ran trong giáo giới Huế, chưa tiện công khai mà thôi.
Gần
đây, cảm thấy “còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời” (lời của Tường),
Tường trần tình lần cuối, tự nhận có lỗi là vì hám danh, để chứng tỏ là người
trong cuộc. Tường tự thú rằng đã kể lại với đài WGBH-TV Boston những chuyện do
người khác kể lại, rồi vơ vào làm như chuyện do Tường chứng kiến, chứ Tường
không có về Huế Tết Mậu Thân.
Có
ai tin nổi lời trần tình của Tường không? Thôi thì sự thật lịch sử luôn luôn
còn có đó. Rồi đây, khi có sự thay đổi chính trị, chắc chắn những sự thật nầy
và nhiều sự thật khác nữa, sẽ được đưa ra ánh sáng.
Nói
cho cùng, trong sinh hoạt chính trị quan trọng nhứt là vấn đề nhận thức và quan
điểm. Từ nhận thức và quan điểm đưa đến hành động. Dầu có hay không có về Huế,
dầu công khai hay giấu mặt, những kẻ ăn cơm Quốc gia, kể cả những những tên có
học vị cử nhân hay tiến sĩ, lại đi thờ ma cộng sản, tiếp tay với bọn khát máu,
giết hại đồng bào, phản bội chính những người đã nuôi dưỡng và bảo bọc mình,
cũng đáng để thiên hạ lên án rồi. Gieo gió thì gặt bảo. Tạo nhân thì lãnh nghiệp.
Đó là lẽ tự nhiên của trời đất.
Nỗi
đau Mậu Thân lớn quá, đau nhứt là vì “đàn con nay lớn khôn, mang gươm
đao vào xóm làng”. (Nhạc “Cơn mê chiều” của Nguyên Minh
Khôi.) Nguyên Minh Khôi còn chấm dứt bản nhạc bằng một lời nhắn nhủ thật thấm
thía: “Và người ơi xin chớ quên, người ơi xin chớ quên”. Xin chớ
quên để người ơi xin đừng tái phạm. Đây là lời tâm tình tha thiết, luôn luôn âm
vang như hồi chuông nguyện cầu trong tâm tư người Việt, còn ở trong nước hay
tha phương trên khắp nẻo toàn cầu.
KẾT
LUẬN
Khoảng
trên 80 năm trước, ngày 4-7-1885 (23 tháng 5 Ất dậu), Tôn Thất Thuyết lãnh đạo
cuộc tấn công Pháp ở kinh thành Huế, bị thất bại, phải cùng vua Hàm Nghi bỏ chạy
lên Tân Sở (Quảng Trị), rồi ra Hà Tĩnh, mở cuộc Cần vương.
Trong
biến cố nầy, một tác giả Pháp có mặt tại chỗ, thuật lại như sau: “Người
Việt thiệt hại lớn lao. Người ta đã chôn hay thiêu hơn tám trăm người chết.” (Nhiều
tác giả, Les grands dossiers de l’illustration: L’Indochine, l’Histoire d’un
siècle 1843-1944, Paris: Le Livre de Paris, 1987, tr. 78. Nguyên văn: Les
Annamites ont du faire des pertes énormes. On a enterré ou brulé plus de huit
cent de leurs.)
Để
tưởng niệm những người đã chết vì cuộc chiến chống Pháp, dân chúng Huế lập Miếu
Âm Hồn ở góc đường Đông Ba và đường Âm Hồn (thời VNCH là đường Mai Thúc Loan và
đường Nguyễn Hiệu), và chính quyền nhà Nguyễn đã lập Đàn Âm Hồn ở Cầu Đất để
hàng năm dâng hương cúng tế, tưởng niệm những nạn nhân trong trận kinh thành thất
thủ ngày 4-7-1885.
Xin
chú ý, những nạn nhân năm 1885 ở Huế đã hy sinh trong lửa đạn chiến tranh. Người
Pháp là thực dân ngoại quốc đến xâm lăng nước ta, nhưng không giết hại bừa bãi
dân Việt. Sau khi trận đánh chấm dứt, là chấm dứt luôn việc chém giết.
Trong
khi đó, cũng tại Huế, trong biến cố Mậu Thân năm 1968, sau khi tạm chiếm Huế, cộng
sản đã giết hại một cách dã man, tùng xẻo nạn nhân như thời Trung cổ, chôn sống
hàng ngàn thường dân vô tội, chôn sống cả những ân nhân nước ngoài. Thế cũng
chưa đủ. Sau năm 1975, nghĩa trang những nạn nhân Tết Mậu Thân bị cộng sản dẹp
bỏ, san phẳng, không còn dấu tích. Những miếu mạo thờ phượng oan hồn uổng tử Tết
Mậu Thân cũng bị đập nát. Nhà cầm quyền cộng sản thì hằng năm ăn mừng biến cố Mậu
Thân như những người man rợ thời hoang dã nhảy múa quay cuồng khi giết được con
mồi. Xem như thế, cộng sản Việt Nam quá sức tàn ác, tàn ác gấp trăm lần thực
dân Pháp nữa.
Tội
lỗi nầy không bao giờ phai trong ký ức của người Việt và trong lịch sử dân tộc
Việt.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto, 19-2-2018)
(Toronto, 19-2-2018)
Kính
mời quý vị đồng hương vùng Toronto và phụ cận tham dự LỄ TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CỘNG
SẢN TẾT MẬU THÂN do Liên hội Người Việt Canada cùng các Tôn giáo và Hội đoàn
trong Cộng đồng, tổ chức lúc 1 giờ trưa ngày Thứ Bảy 3-3-2018 tại Northwood
Community Centre, số 15 Clubhouse Crt., North York, Ontario, điện thoại:
416-395-7876.
No comments:
Post a Comment