Phạm Chí Dũng
3/08/2013
Độ mở của Washington
tùy thuộc vào thái độ bớt khép kín của Hà Nội. Ngay trước mắt, giới hoạt động
dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam đã có thể bắt đầu nghĩ đến một khả năng “hòa
hợp hòa giải” với chính thể, để cùng giữ cho đất nước này tránh thoát khúc
quanh đầy tai biến trong những năm tháng tới.
Ba ngày sau
Chuyến
đi của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đến Washington vào cuối tháng
7/2013 đã “gặt hái” được một kết quả gián tiếp nhưng tức thì: chỉ ba ngày sau
kết thúc hội đàm Obama – Sang, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Luật nhân quyền Việt
Nam với số hiệu HR 1897 với số phiếu áp đảo.
Có
vẻ đúng như báo Nhân dân – cơ quan ngôn luận của Đảng – đã định hướng,
một “chương” mới cho quan hệ Mỹ – Việt đang mở ra.
HR
1897 cũng là văn bản đầu tiên xác nhận mối liên đới giữa hai nhà nước với nhau,
thay cho cuộc hội đàm Sang – Obama khá ngắn ngủi mà đã không hiển lộ bất cứ kế
hoạch triển khai chi tiết nào, ngoài bản tuyên bố chung với hình thức khá giống
một thông cáo báo chí.
Chỉ
có điều, báo chí quốc tế lại đã không làm tròn phận sự của mình. AP, CNN, AFP
hay nhiều hãng truyền tin khác đã tỏ ra thờ ơ một cách đáng bị khiển trách,
lồng trong bầu không khí trầm mặc tại sân bay quân sự Andrew không thảm đỏ và
cũng không có cả đội danh dự.
Một
phát ngôn có tính an ủi “hướng về tương lai” hóa ra lại thuộc về John Kerry –
cựu binh Mỹ ở chiến trường Nam Việt Nam và cũng là người đã không ít lần bác bỏ
bản dự luật nhân quyền Việt Nam do Hạ nghị viện chuyển qua Thượng nghị viện.
Bữa
ăn trưa Kerry – Sang ngồn ngộn những tính từ ngoại giao và làm đầy đặn cho dạ
dày xã giao, nhưng không khỏa lấp được hương vị của hai bản dự luật nhân quyền
đang lan tỏa.
Giới
quan chức Việt Nam có lẽ vẫn băn khoăn: liệu vào năm sau (2014), Ngoại trưởng
Mỹ có thể một lần nữa không quan tâm đến Luật nhân quyền Việt Nam?
“Triệt buộc”
Hình
như người Mỹ đã tính toán sao cho hợp lý vào trước, trong và nhất là sau chuyến
đi của ông Sang đến Nhà trắng. Phái đoàn nghe nói đông đến 200 người của Chủ
tịch nước Việt Nam, ngoài việc được đón tiếp ngang cấp đại sứ ở sân bay, đã
không có cơ hội bước lên diễn đàn để “tôn giáo vận” và cao hơn nữa là “địch
vận” trong lòng Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.
Năm
chức sắc tôn giáo của Việt Nam cũng bởi thế đã không hiển minh được chính kiến
của họ về “thực tế sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam”.
Y
Ky Ê Ban – mục sư Tin Lành trong cơ số chiếm trọn một chiếc máy bay – là một
minh họa điển hình. Sau chuyến đi lặng lẽ và âm thầm trở về thành phố sương mù
ngầy ngật mùi cà phê Ban Mê Thuột, ông mục sư này đã cho một tổ chức truyền
thông xã hội biết rằng trong suốt những ngày ở nước Mỹ, ông đã không tiếp xúc
với bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào người Mỹ hay người Việt lưu vong.
Cũng
có nghĩa là đã không có một cuộc “điều trần” nào của phái đoàn ông Trương Tấn
Sang trước Ủy ban về tự do tôn giáo và Ủy ban đối ngoại của Hạ nghị viện Hoa Kỳ
– một trạng thái không giống với nghị trình đã được phía Việt Nam và cả các dân
biểu tranh đấu cho tự do nhân quyền của Mỹ lập trình chu đáo trước đó.
Có
thể Chris Smith – Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ nghị viện Mỹ – đã “đi đêm” với
Tổng thống Barak Obama về việc không cần nghe một lời thanh minh nào thêm từ
phía Việt Nam.
Cũng
cho tới nay, vẫn không có bất cứ tin tức bàn thảo nội bộ nào trong cuộc gặp
Obama – Sang được tiết lộ từ phòng Bầu Dục. Tuy không có bằng chứng nào về việc
Obama đã “lên án” Hà Nội về vấn đề nhân quyền như một số nghị sĩ Mỹ đề xuất,
nhưng cũng không có chứng minh nào đủ thuyết phục về chuyện Tổng thống Mỹ đã
quay lưng với những người đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam.
Logic
của vấn đề có thể được diễn đạt: một khi không cần đến sự diễn giải của phái
đoàn ông Sang về nhân quyền, người Mỹ đã chưa nhìn thấy điều được gọi là “thành
tâm chính trị” thể hiện rõ nét trong chuyến đi vừa qua, và do vậy người Mỹ tự
cho mình cái quyền đẩy Hà Nội vào tình thế đánh đố nhiều hơn là gợi mở.
Với
HR 1897, có thể coi đó là thế “triệt buộc”.
Sân
khấu vẫn ẩn giấu sau một tấm màn khép kín mà chưa viễn tượng ra tương lai.
“Hòa hợp hòa giải”
Tương
lai ấy, Nhà nước Việt Nam đã không thể có cơ hội tiếp cận bằng chính xúc giác
của họ trong chuyến đi Washington vừa qua. Từ TPP đến “đối tác chiến lược” và
vũ khí sát thương, tất cả đều không hé lộ một triển vọng nhanh chóng nào.
Thế
nhưng, việc thông qua Luật nhân quyền Việt Nam chỉ ít ngày sau cuộc gặp Obama –
Sang và trước thời hạn quy định của Hạ viện Mỹ lại là lời đánh đố mở màn, như
biểu lộ động thái cần nhanh chóng làm cho Hà Nội hiểu rằng họ đang ở vào năm
2013 chứ không còn là năm 2006 – thời điểm mà Nhà nước Việt Nam được “bóc tách”
khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo
(CPC), để chuẩn bị cho cuộc tiến chiếm bàn tròn WTO với tư cách là thành viên
thứ 150.
Rất
có thể, người Mỹ đang chơi bài theo cách của Bắc Kinh, với những nhấn nhá và
điểm xuyết cho bức tranh quan hệ hữu hảo có điều kiện.
Và
không thiếu ràng buộc…
Bài
học mà người Mỹ có lẽ đã không ít lần ôn lại là kể từ khi không còn nằm trong
danh sách CPC vào năm 2006, tình hình nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại trở
nên “tự do” đến mức mà giới quan sát phương Tây phải yêu cầu chính quyền Mỹ
đóng cửa quan hệ với Hà Nội.
Nếu
Trương Tấn Sang đã tâm tư thành thật bằng vào hành động ẩn dụ trao cho Obama
bản sao bức thư của ông Hồ Chí Minh đề nghị Tổng thống Mỹ Harry Truman “giúp đỡ
Việt Nam” vào năm 1946, thì sau gần bảy chục năm, liệu người ta có thể ghi nhận
một “thành tâm chính trị” nào đó của Hà Nội, ít nhất bằng vào một động thái
giải tỏa nhân quyền đối với giới nhân sĩ và trí thức dân chủ vẫn còn trong vòng
“cưỡng chế” nơi đây, để đổi lại quy chế TPP, như đã từng đánh đổi quy chế tối
huệ quốc vào năm 2000?
Cách
chơi bài của người Mỹ là kiểu cách với điếu xì gà trên miệng cùng những vòng
khói tỏa ra từ lỗ mũi thâm sâu của người Trung Hoa. Bầu không khí ấy có vẻ
không hứa hẹn một viễn cảnh được phác ra sớm sủa, mà có lẽ sẽ kéo dài theo một
quy luật được tích tụ từ dĩ vãng: độ mở của Washington tùy thuộc vào thái độ
bớt khép kín của Hà Nội.
Sau
chuyến đi được đại sứ Hoa Kỳ David Shear xem là “cơ hội lịch sử”, mọi chuyện
đang rẽ sang một khúc quanh mới. Hợp tác quân sự ở Biển Đông, TPP và cả chủ đề
dân chủ nhân quyền đều đang hé lộ triển vọng, ít nhất trên phương diện hứa hẹn.
Nhưng
ngay trước mắt, giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, với sứ mệnh
không chỉ phản biện xã hội mà còn đóng vai trò cầu nối giữa chế độ và quốc tế,
đã có thể bắt đầu nghĩ đến một khả năng “hòa hợp hòa giải” với chính thể, để
cùng giữ cho đất nước này tránh thoát khúc quanh đầy tai biến trong những năm
tháng tới.
P.C.D.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment