10/04/2012
(Cập nhật hóa bài
viết 20/09/2002 để tưởng niệm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện vừa từ trần hôm
2-10-2012 tại California.)
Hoa đây là tập thơ " Hoa địa ngục ", một tập thơ mà từ khi xuất hiện trong cộng đồng hải ngoại vào năm 1980 đã gây nhiều chấn động sâu sa. Chấn động vì thông điệp trong nội dung tập thơ. Đó là tiếng khóc uất nghẹn, tiếng thét hào hùng cũng như lời tố cáo đanh thép những tội ác của Cộng sản của mấy mươi triệu đồng bào Việt Nam. Hồn thiêng sông núi như tụ đọng lại trong tập thơ, nên khi tập thơ ra đời nó được sự hưởng ứng nồng nhiệt của đồng bào Việt Nam hải ngoại.
" Hoa địa ngục " là hoa gì? Tác giả tập thơ cũng đã giải thích bằng mấy vần thơ của ông trong " Những ghi chép vụn vặt " ở cuối tập thơ như sau:
Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Đính kèm theo tập thơ là một lá thư viết bằng tiếng Pháp có nội dung như sau:
" Thưa ông,
Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chính thể độc tài, đã gục ngã hay còn đang kéo dài một cái chết đau đớn trong ngục tù Cộng sản , tôi xin cho xuất bản những bài thơ này tại vùng đất tự do của quốc gia ông. Đây là công trình làm việc suốt hai mươi năm trời của tôi. Phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị quản thúc. Tôi nghĩ rằng không phải ai khác mà chính chúng tôi, những nạn nhân, có sứ mạng phải phơi bày cho thế giới thấy những khổ nhục không thể tưởng tượng nổi của dân tộc tôi, hiện nay vẫn còn đang bị áp chế và hành hạ thẳng tay. Cuộc đời tan nát của tôi chỉ còn một hy vọng là nhìn thấy thế giới ý thức được rằng Cộng sản là một bệnh dịch khủng khiếp của nhân loại.
Xin ông nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tôi cũng như của những đồng bào bất hạnh của tôi."
Hoa đây là tập thơ " Hoa địa ngục ", một tập thơ mà từ khi xuất hiện trong cộng đồng hải ngoại vào năm 1980 đã gây nhiều chấn động sâu sa. Chấn động vì thông điệp trong nội dung tập thơ. Đó là tiếng khóc uất nghẹn, tiếng thét hào hùng cũng như lời tố cáo đanh thép những tội ác của Cộng sản của mấy mươi triệu đồng bào Việt Nam. Hồn thiêng sông núi như tụ đọng lại trong tập thơ, nên khi tập thơ ra đời nó được sự hưởng ứng nồng nhiệt của đồng bào Việt Nam hải ngoại.
" Hoa địa ngục " là hoa gì? Tác giả tập thơ cũng đã giải thích bằng mấy vần thơ của ông trong " Những ghi chép vụn vặt " ở cuối tập thơ như sau:
Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Đính kèm theo tập thơ là một lá thư viết bằng tiếng Pháp có nội dung như sau:
" Thưa ông,
Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chính thể độc tài, đã gục ngã hay còn đang kéo dài một cái chết đau đớn trong ngục tù Cộng sản , tôi xin cho xuất bản những bài thơ này tại vùng đất tự do của quốc gia ông. Đây là công trình làm việc suốt hai mươi năm trời của tôi. Phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị quản thúc. Tôi nghĩ rằng không phải ai khác mà chính chúng tôi, những nạn nhân, có sứ mạng phải phơi bày cho thế giới thấy những khổ nhục không thể tưởng tượng nổi của dân tộc tôi, hiện nay vẫn còn đang bị áp chế và hành hạ thẳng tay. Cuộc đời tan nát của tôi chỉ còn một hy vọng là nhìn thấy thế giới ý thức được rằng Cộng sản là một bệnh dịch khủng khiếp của nhân loại.
Xin ông nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tôi cũng như của những đồng bào bất hạnh của tôi."
Hình lá thư, so chữ
ký Nguyễn Chí Thiện.
http://www.vietbao.com/images/upload/VB/2012/10_2012/04_10_2012/CD/THU_Nguyen_Chi_Thien.jpg
http://www.vietbao.com/images/upload/VB/2012/10_2012/04_10_2012/CD/THU_Nguyen_Chi_Thien.jpg
Khi tập thơ được tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong tung ra, nó mang tên " Bản chúc thư của một người Việt Nam" . Tác giả coi như khuyết danh. Người ta chỉ mù mờ biết là tác giả đã quăng tập thơ vào một tòa đại sứ Âu Châu tại Hà Nội và sau đó không biết số phận của tác giả ra sao sau khi quăng tập thơ. Điều chắc chắn là ông bị cầm tù ngay sau khi quăng tập thơ. Rồi tập thơ mang thêm cái tên thứ hai " Tiếng vọng từ đáy vực " do nhóm ông Viên Linh và Nguyễn hữu Hiệu xuất bản. Dĩ nhiên người xuất bản cũng không biết rõ thân thế của nhà thơ tác giả.
Chỉ có học giả Huỳnh sanh Thông là ghi đúng tên của tập thơ là " Hoa địa ngục " và tác giả là " Nguyễn chí Thiện " trong bản dịch tập thơ này của ông. Sỡ dĩ học giả Huỳnh sanh Thông ghi đúng vì ông đã tiếp xúc với giáo sư Patrick J. Honey, vốn là một chuyên viên về Việt Nam của trung tâm Á và Phi châu của trường đại học Luân Đôn. Giáo sư Honey cho biết là sau khi quăng tập thơ vào tòa đại sứ Anh , tác giả tập thơ bị bắt ngay, và những viên chức ngoại giao đã gửi tập thơ này về Luân Đôn. Một nhân viên Việt Nam có được bản sao và sau đó trao lại cho tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong tại Mỹ để xuất bản. Giáo sư Honey cho biết văn phòng bộ ngoại giao có lần cho ông coi bản thảo tập thơ có đề tên rõ nhan đề là " Hoa địa ngục " ( Giáo sư Honey có nói rõ điều này trong lá thư đề ngày 26 tháng 5 năm 1981 gửi cho Học giả Huỳnh sanh Thông ). Lúc bộ ngoại giao Anh giao cho Đài BBC để phổ biến đến cộng đồng Việt Nam khắp thế giới, họ cố tình giấu đi tên cũng như nhan đề của tập thơ, có lẽ với mục đích muốn bảo vệ an ninh cho nhà thơ cũng như vì muốn tránh những rắc rối tế nhị về ngoại giao . Cái hảo ý của chính phủ Anh lại trở thành những phiền muộn cho tác giả tập thơ sau này vì có những suy diễn bậy bạ, thiếu căn bản khoa học về tác giả tập thơ một cách vô căn cứ . Nói tóm lại, bộ ngoại giao Anh giao cho ông Đỗ Văn của Ban Việt Ngữ đài BBC và ông Đỗ Văn giao lại cho ông Châu kim Nhân để rồi ông Châu kim Nhân ủy thác cho tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong ở Mỹ ấn hành tập thơ.
Ai là người công bố tên tác giả của tập thơ là nhà thơ Nguyễn chí Thiện ?
Người đầu tiên công bố tác giả tập thơ là ông Minh Thi, hiện sống tại Santa Ana. Ông Minh Thi là bạn tù của nhà thơ Nguyễn chí Thiện từ năm 1970 đến 1977 tại trại tù Phong Quang. Ông Minh Thi khi ra tù thì vượt biển tới Hồng Kông và tới Mỹ sau đó. Nhưng ông Minh Thi chỉ mới công bố tên của nhà thơ, còn người đem hình ảnh nhà thơ từ trong nước ra hải ngoại để giới thiệu với đồng bào hải ngoại là ông Trần Nhu. Ông Nhu đã liên lạc về Việt Nam để lấy được cái ảnh của nhà thơ . Ông Nhu hiện nay sống tại San Jose và cũng là bạn tù của nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Ông cho biết anh em trong tù hầu như thuộc lòng thơ Nguyễn chí Thiện. Nhà văn Vũ thư Hiên sau này viết cuốn sách hồi ký " Đêm giữa ban ngày " cũng có nhắc đến mấy câu thơ của Nguyễn chí Thiện từ lúc ở chung trong tù mà ông còn đọng lại trong trí nhớ.
Hoa địa ngục gây ngay sự xúc động mãnh liệt ở người đọc vì nhà thơ đã bộc bạch những tâm sự bức xúc, đau đớn thiết tha mà người nào ,nếu còn có một con tim, khi đọc đến thì không thể không cảm động. Phải nói là lúc tập thơ có mặt ở Cộng đồng hải ngoại, ai có đọc qua đều cũng phải xuýt xoa khen ngợi tập thơ . Phải nói là mấy chục năm nay, chưa bao giờ người ta đọc được một tập thơ hay như thế. Thơ tả cảnh, tả tình, thơ chiến đấu, loại nào cũng đạt đến trình độ nghệ thuật cao, toàn bích. Cái hay của thơ Nguyễn chí Thiện là ông dùng những chữ rất bình dị, mộc mạc chứ không dùng chữ dao to búa lớn, nhưng vì chữ đặt đúng chỗ đắc địa nên đã tạo nên được một hồn thơ dào dạt và do đó thơ ông đi sâu ngay vào tim óc người đọc. Vả lại, tai họa Cộng sản ụp xuống cả dân tộc Việt Nam nên hầu như mọi người đều là nạn nhân đau thương của chế độ gian ác, bất nhân. Cho nên khi đọc những vần thơ máu lệ, người đọc có ngay sự đồng cảm rung động thiết tha.
Có điều cần nói ở đây là sau vụ đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm người ta cứ tưởng là ở miền Bắc không ai còn dám chống lại Cộng sản. Tập thơ " Hoa địa ngục " của Nguyễn chí Thiện cho thấy không phải như vậy, người dân miền Bắc vẫn tìm cách chống đối bạo quyền Cộng sản bằng cách này hay cách khác. Nguyễn chí Thiện đã chọn hình thức thơ ca như một vũ khí lợi hại để chống lại bạo quyền. Trước khi tập thơ được in thành sách ở hải ngoại vào tháng 10.1980, những vần thơ sắt đá đẫm máu lệ của Nguyễn chí Thiện đã được lưu truyền ở miền Bắc , điều đó chứng tỏ thơ Nguyễn chí Thiện đã được nhân dân Việt Nam yêu thích từ lâu trước khi nó được xuất bản thành sách. Dĩ nhiên lý do dễ hiểu là thơ Nguyễn chí Thiện hay nên dễ đi sâu vào tim óc người đọc.
Thử đọc vài câu nói lên tâm tình bức xúc của tác giả trong cảnh tù tội :
" Tôi thường khóc thảm thê như đứa nhỏ
Mái nhà xưa trong giấc ngủ mơ về
Nhưng ban ngày khi thức tỉnh không mê
Mắt tôi ráo, thâm quầng, tia máu đỏ
( Ghi chép vụn vặt số 7)
Ai không rướm lệ khi đọc những lời nói thống thiết,chua cay như được vắt ra từ trái tim rướm máu:
" Nếu có trời, đời tôi phải khác
Đâu bị đói nghèo, tù lao tan tác !
Vì tôi chưa làm việc gì độc ác
Và luôn sống với tâm tình chất phác
Dù toàn gặp những điều bội bạc
Và lòng buồn như đêm sa mạc!
( Nếu có trời)
Ông vắt máu từ tim để viết ra những lời thơ trên và đã làm cho người đọc bồi hồi xúc động cả tâm can. Thế mới biết những gì xuất phát chân thành từ trái tim thường làm trái tim xúc động.
Trong tập thơ , ông đã phần nào hé mở tuổi tác của ông qua bài " Hiện tại "
" Hiện tại mồ hôi chùi xóa nhẵn
In hình đen xạm xuống da nhăn
TRÒN BA MƯƠI TUỔI XÒE TAY TRẮNG
Nắn bóp đôi chân nát sẹo lằn
Quá khứ mang đầy những khát khao
Vỡ tan ngàn mảnh cắm sâu vào..
Quay đầu ngoảnh lại trông chi nữa?
Hãy cố dần lê tới hố đào!
Đợi chờ ngày tháng không mang lại
Thân thế chìm trong tiếng thở dài
Thôi nếu tim còn dư chút mực
Trang đời xin gạch chữ tương lai
( 1968)
Bài thơ làm năm 1968 và tác giả cho biết ông được tròn 30 tuổi, như vậy thì ông phải sinh năm 1938 hay 1939 ( tùy theo tuổi ta hay tuổi tây). Toàn bộ tập thơ ông hoàn toàn không nhắc chi đến vợ con, chỉ thỉnh thoảng nhắc lại vài mối tình lở dở trong quá khứ. Qua bài thơ " Tôi,một kẻ " ta càng thấy rõ cái thân thế cô đơn của ông hơn:
" Tôi, một kẻ không gia đình,bè bạn
Sống một mình,bệnh hoạn xanh xao
Chai nước con, chiếc điếu hút thuốc lào
Chiếc giường vải, chiếc bàn bằng gỗ cũ
Đồ đạc tôi thế là tạm đủ
Cuộc sống nghèo hèn, không ước không mơ
Ngoài thời gian dạy học vài giờ
Tôi tìm kiếm niềm khuây trong sách vở
Ít ra khỏi căn buồng con tôi ở
Chủ nhật, ngày thường tôi thấy như nhau
Những khi buồn tôi đem điếu ra lau
Hoặc khe khẽ ngâm một vài câu thơ cổ
Mỗi tháng một lần tôi mang phiếu sổ
Tiêu chuẩn thịt, đường một lạng mua ăn
Trong lòng tôi chỉ một nỗi băn khoăn
Sợ bị bắt,bị nghi là bất mãn."
Đó là nói qua thân thế cô đơn của nhà thơ. Đọc tập thơ ngoài những lời thống thiết tả những cảnh đói ,cảnh hành hạ đau thương của kiếp sống của người tù cải tạo trong chế độ Cộng Sản, người ta ngạc nhiên khi thấy tác giả có những kiến thức phong phú về thế giới bên ngoài. Từ chuyện chê trách triết gia Bertrand Russell bênh vực Việt Cộng trong bài " Gửi Bét- Tran Rút-Xen" trong đó có bốn câu mở đầu khá vui như sau:
" Ông là một bậc triết nhân
Nhưng về chính trị ông đần làm sao
Ông bênh Việt Cộng ồn ào
Nhưng ông hiểu chúng tị nào cho cam"
Và ba câu chót của bài thơ này cũng đầy vẻ mỉa mai ,mát mẻ
" Tuổi ông ngót nghét một trăm
Nhưng thua cậu bé mười lăm đói gầy
Về môn " Cộng sản học này!
( 1968)
Chính ông cũng thú nhận mình đọc sách vở Đông Tây nhiều, dĩ nhiên điều này có lợi là mở mang kiến thức , mở rộng tầm nhìn nhưng cũng có cái hại là nó làm cho trí óc phải mệt mỏi vì những mâu thuẫn trong cuộc sống so với những điều đọc từ sách vở :
Nếu tôi có một cái đầu đơn giản
Không nặng nề bao sách vở đông tây
Thời trái tim tôi bớt mọi đọa đầy
Do mâu thuẫn giằng co nhau hỗn loạn.
Sống trong tù đày tối tăm ,ông dệt giấc mơ bay tới những phương trời xa lạ, đẹp đẽ bằng những lời thơ óng ánh, mượt mà trong bài thơ " Tôi chưa sống " :
" Tôi chưa sống cuộc đời tôi định sống
Tôi còn yêu bao giấc mộng thương yêu!
Philippovna, Marguerite, Thúy Kiều
Chiều Mạc Tư Khoa nắng lòa đất thánh
Đêm Danube nước trời sao lấp lánh
............................( 1969)
Ông tiếp tục dệt giấc mơ xa bằng những nhân vật lịch sử trong văn học cũng như ở ngoài đời khắp thế giới:
" Tôi muốn sống với Vũ Tùng đã hổ
Với Quan vân Trường mặt đỏ râu đen
Vào lính ngự lâm cùng Athos làm quen
Bạn với D Artagnan, Porthos và Aramis!
Tôi muốn tới Palestine, mồ Jesus Christ
Cùng Ai-Van Hô làm cuộc Thập Tự Chinh
Sống một ngàn một đêm lẻ trong dinh
Dựng lên bởi Thần đèn giúp A-la-Đanh
cưới vợ
Sang châu Mỹ đất tân kỳ man rợ
Cùng Jack London đi xe chó tìm vàng
Tôi muốn sang Nga yến tiệc với Nga Hoàng
Tiếp chuyện André một chiều trên bến nước
Cùng Pethchorine giữa Caucase dạo bước
Đấu súng, đấu gươm, khiêu vũ chan hòa
Gặp Dostoi trong đêm trắng pha trà
Mặc tuyết rơi, ngồi bên ấm Samovar
An ủi chàng sinh viên giết người Raskolnikov
Khuyên Philippovna lấy chàng ngốc hiền hòa
Tiếp tục hành trình tôi tới Tây Ban Nha
Theo Don Quichotte đi phò nguy cứu khổ
Sống thỏa thuê tôi trở về đất tổ
...................................
( 1962)
Phải nói dù là một người dân ở ngay thủ đô Hà Nội trong những năm trước 1975 cũng khó có một cái nhìn rộng rãi và bao quát hơn nhà thơ về tình hình nước ngoài. Ở tù gần như suốt cả cuộc đời ông vẫn vận dụng những phương tiện truyền thông báo chí để tự trang bị cho mình một kiến thức khá đầy đủ về tình hình thế giới về phương diện chính trị cũng như về văn học. Đó quả là một điều đáng phục.
Ngoài những câu thơ ai oán cực tả cảnh tù đói nghèo khốn nạn có một không hai làm người đọc ứa lệ, tập thơ có những câu thơ sắc bén như dao, mạnh như vũ bão nhằm bày tỏ ý chí của nhà thơ trong chuyện đối đầu với bạo quyền Cộng sản Việt Nam:
Cuộc chiến đấu này chưa phân thắng phụ
Ta vẫn còn đây và sắt thép còn kia
Chết chóc thầm câm, cốt nhục chia lìa
Ta vẫn sống và không hề lẫn lú
Ta muốn nói với loài dã thú
Khúc hát khải hoàn ta sẽ hát thiên thu !
( Cuộc chiến đấu này - 1975)
Ông nhìn ra sức công phá mãnh liệt của toàn dân khi vận nước tới. Nó sẽ kinh khủng như bom nguyên tử sau bao năm tháng bị đọa đầy, áp bức. Biến cố nổi dậy của nông dân Thái Bình và Xuân Lộc đã cho thấy giai đoạn đầu của sự bùng vỡ. Người Cộng sản thường đề cao câu nói " Có áp bức thì có đấu tranh ", nay thì đúng là chuyện " gậy ông đập lưng ông " xảy ra cho bọn chúng: người dân khi không còn chịu đựng nổi sự hà khác, bóc lột thì chỉ còn một cách duy nhất là đứng dậy. Hơi thơ trong bài này giống như một sức ép tụ lại, chờ đúng thời điểm là bung ra để phá vỡ tất cả những câu thúc, trói buộc:
Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử
( Trong bóng đêm - 1976)
Có sống trong lòng Cộng sản nhiều năm, chịu nhiều sự bức bách , đàn áp, hành hạ, người ta mới thấy rõ sự thù hận chất chồng kinh khủng của người dân đối với chế độ Cộng sản cho nên ngày " tức nước vỡ bờ " phải là một ngày bùng nổ mãnh liệt không thể tưởng tượng đúng như nhà thơ tiên đoán.
Dịch giả tiếng Đức của tập thơ " Hoa địa ngục" là tiến sĩ Bùi hạnh Nghi cũng có lời bàn chí lý về bài thơ này như sau, " Bài thơ này được sáng tác năm 1976, sau ngày miền Nam thất thủ. Từ giọng văn đanh thép với những danh từ thuộc lãnh vực chiến trận ( phục sẵn, sấm sét, đoàn quân, nguyên tử ) toát ra một sức mạnh như vũ bão xoáy vào tim óc người đọc. Niềm tin vào sinh lộ ở cuối chặng đường tử lộ phát nguồn từ chân lý mà Nguyễn chí Thiện đã tìm thấy trong lịch sử dân tộc, lịch sử được kết bằng một chuỗi dài chiến thắng vẻ vang minh chứng cho định luật " chính nghĩa thắng bạo tàn ". Vận nước sẽ xoay vần nhưng không do số mệnh hoặc " trời ban" mà sẽ là kết quả của cuộc chiến từ nhân dân, khi mọi người sẵn sàng " đập tan hết để xoay vần mệnh số . "
Ông đã đánh giá rất đúng khả năng tác dụng mãnh liệt của những lời thơ ông trong công cuộc chiến đấu chống bạo quyền:
"Những vần thơ có hình dạng là thơ
Song sức phá vạn lần hơn trái phá."
( Với tôi, ngày sống là - 1971)
Giá trị của thơ Nguyễn chí Thiện không chỉ nằm ở phương diện nghệ thuật ( tập thơ " Hoa địa ngục " đã trúng giải thi ca Quốc tế năm 1985) , mà nó còn có giá trị của một loại sấm ký thời đại. Chuyện Liên Xô và khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ cho thấy nhà thơ đã tiên đoán đúng sự tàn lụi của Cộng Sản, bao giờ tới phiên Việt Nam thì chỉ là vấn đề thời gian mà thôi:
Tôi tin chắc một điều
Một điều tất yếu
Là ngày mai mặt trời sẽ chiếu
Tôi lại nghĩ một điều
Một điều sâu thẳm
Là đêm tàn Cộng sản tối tăm
Có thể kéo dài hàng mấy mươi năm
Và như thế sẽ buồn lắm lắm
Cho kiếp người sống chẳng bao lăm!
( Tôi tin chắc- 1969)
Đối với Cộng sản ông bày tỏ một lập trường dứt khoát, quyết liệt:
Vợ con có thể bỏ
Cha mẹ có thể từ
Cộng sản thì sinh tử
Mới thoát và tự do.
Ông còn ân cần khuyên nhủ chúng ta:
Đừng sợ cái cực kỳ man rợ
Dù nó đương thịnh thời rông rỡ nơi nơi
Phải vững tin vào bước tiến con người
Vì khi nó bị dìm ngang súc vật
Cũng là lúc nó tìm ra sức bật
Đau thương kỳ diệu đi lên !
Từ muôn ngàn tàn lụi không tên
Sẽ bùng nở một trời hoa lạ quý
Từ đêm cùng chập chùng chuyên chế
Văn minh nghệ thuật hồi sinh
Chỉ xót cho lớp trẻ hiện hình
Của đói khổ, tù đày, nhem nhuốc
Phải cứu chúng, phải tìm ra phương thuốc
Dù là thuốc nổ
( Đừng sợ - 1975)
Nguyễn chí Thiện chỉ sắt đá với kẻ thù Cộng sản, còn đối với cha mẹ, anh em và đồng bào ruột thịt, trái tim ông lúc nào cũng mở rộng, thương yêu vô bờ bến. Ông đau xót nhìn những trẻ em xanh xao như tàu lá chuối đến một cụ già ngồi bán rau cũng như tỏ bầy tình cảm thương yêu, xót xa đối với một cô gái có bệnh lao mà ông gặp trong tù.
Trong bài thơ " Anh gặp em ", ông bày tỏ tấm lòng nhân hậu đến cô gái khốn khổ, đáng thương bằng những lời lẽ chân thành xót xa từ trái tim :
.......Em là đau khổ hiện thân
Ngấn lệ đêm qua còn dấu hoen nhòa
Trên gò má tái
Trong lòng anh bấy nay xám lại
Nhìn em , lệ muốn chảy dài
.....
Sớm qua ngồi, tay anh em nắm
Muốn truyền cho nhau chút tình lửa ấm
Mặc bao ngăn cấm đê hèn
Sáng nay em không trống không kèn
Giã từ cuộc sống
Xác em rấp trên đồi cao gió lộng
Hồn anh trống rỗng tả tơi ...
( 1964)
Ngoài tình cảm trai gái thông thường, tình dành cho những trẻ em tù tội, Nguyễn chí Thiện dành cho mẹ ông những tình cảm thật trong sáng cảm động. Cả cuộc đời tù tội, ông biết ông mang tội bất hiếu, làm khổ mẹ cha. Mẹ ông cũng đau đớn khi có một đứa con trai chôn vùi cuộc trời trong những trại giam tăm tối nhất dương gian trong chốn rừng sâu núi thẳm. Bà mẹ Nguyễn chí Thiện cũng là bà mẹ điển hình Việt Nam, sống trong chế độ tàn độc Cộng sản, chỉ còn biết chảy nước mắt khóc đứa con trai tù tội bất hạnh. Con càng bất hạnh, mẹ lại càng thương hơn. Tình mẫu tử bao giờ cũng là một tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất trên đời. Nguyễn chí Thiện bày tỏ tình cảm thương yêu thiết tha với mẹ ông bằng những lời lẽ tha thiết,cảm động :
Mẹ tôi trong những ngày giỗ chạp
Thường ngồi chắp tay cầu khấn giờ lâu
Chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc màu
Tôi chỉ thấy mẹ dùng khi lễ bái
* * *
Đời của tôi nhiều khổ đau oan trái
Mẹ bao giờ cũng cầu nguyện cho tôi
Đứa con trai tù tội mấy phen rồi
Hàng nước mắt chảy giòng trên má mẹ
* * *
Ngồi bên mẹ, tôi thấy mình nhỏ bé
Tình thương yêu của mẹ lớn bao nhiêu
Mẹ ơi, con lòng chỉ nguyện một điều
Được gần sống, đừng lìa xa khỏi mẹ
* * *
Giờ hẳn mẹ mỗi khi ngồi cầu lễ
Cho đứa con tù bệnh chốn rừng sâu
Chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc màu
Phải đầm ướt biết bao hàng nước lệ !
( Mẹ – 1963)
Đối với bất cứ người con nào trên trái đất này, ngày mẹ mất là ngày đau thương nhất trong đời. Nguyễn chí Thiện cũng thế, năm 1970, khi còn ở trong trại tù,ông nhận được tin mẹ mất, ông khóc mẹ bằng mấy câu thơ ngắn tức tưởi, bàng hoàng để cực tả sự đau thương cùng cực của người con khi nghe tin mẹ qua đời :
Mẹ ơi !
Mẹ đã mất rồi !
Trái đất không còn có mẹ
Mẹ chẳng bao giờ còn thấy mặt con
Còn khóc nữa !
Con chẳng cần ra tù nữa
Nếu thầy không còn sống, mẹ ơi !
Mẹ đã mất rồi
Mãi mãi không còn thấy mẹ !
Mai hậu đời con cũng hết
Mà vẫn không thấy mẹ, mẹ ơi !
( Mẹ ơi ! –1970)
Ai đọc những câu thơ xót ra trên mà không rơm rớm nước mắt. Thơ Nguyễn chí Thiện không chỉ là thơ chiến đấu, nó còn là nguồn nước cam lồ tươi mát dội xuống tâm hồn người đọc làm khơi dậy những tình cảm yêu thương tha thiết và trong sáng của con người . Cộng sản dùng tù đày để ly cách người thân ruột thịt nhằm thủ tiêu tình cảm những con người chống đối chúng. Thơ Nguyễn chí Thiện như dòng suốí ngọt ngào, thanh khiết nhằm khơi dậy những tình cảm đáng quý của con người . Nguyễn chí Thiện đã thành công khi làm cho mọi người muốn tắm mát trong dòng sông yêu thương trong thi ca ông. Cái đẹp, cái yêu thương sẽ trường tồn miên viễn, cái ác dù không biến mất trong chốc lát, nhưng dần dà cũng bị đào thải biến mất theo thời gian.
Mặc dù sống trong tù đày tăm tối 27 năm, Nguyễn chí Thiện vẫn nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm, ông nhìn thấy ngày mai tươi sáng khi Đảng Cộng sản bị tiêu diệt. Tình hình sôi động ở Việt Nam trong những ngày gần đây cho thấy ngày lâm chung của Cộng sản cũng đã gần kề. Cựu tướng Cộng sản Trần Độ cho biết chế độ Cộng Sản Việt Nam mắc bệnh nhưng lờ đi không chịu chữa. Bệnh của chúng thuộc loại ung thư chỉ chờ ngày ngã gục vì hệ thống của chế độ mục rã từ dưới lên trên, chỉ cần một đóm lửa mồi là căn nhà bốc cháy, thiêu rụi cái chế độ gian ác, tàn độc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Luật sư Trần thanh Hiệp trong bài viết " Nguyễn chí Thiện và thơ của ông " ( Bài viết ra đời trước khi Nguyễn chí Thiện đến Mỹ), đã có những lời phê bình chính xác khi đối chiếu thơ Nguyễn chí Thiện với nền thi ca Tây phương như sau:
Nguyễn chí Thiện, người khách lạ.
Đầu thập niên 80, Nguyễn chí Thiện đã vào sứ quán Anh quốc tại Hà Nội để quăng tập thơ ông sáng tác trong suốt hai mươi năm ông bị tù, bị cải tạo, bị quản thúc..
Sau đó dưới nhiều tiêu đề khác nhau, thơ ông được xuất bản ra nước ngoài, được phổ nhạc, được dịch ra ngoại ngữ , được giới thiệu qua báo chí và những buổi ngâm, đọc, hội thảo..
Thành phố Rotterdam của Hòa Lan đã tặng ông Giải Thưởng Thơ Rotterdam. Ân Xá Quốc Tế ghi tên ông vào danh sách những người cầm bút bị đàn áp vì chính kiến . Nhiều trung tâm quốc gia của Văn Bút Quốc Tế bầu ông làm hội viên danh dự , trong đó có văn bút Pháp, Đức , Hòa Lan..
Nguyễn chí Thiện hiện nay là một tác giả Việt Nam được giới văn hóa và truyền thông nói tới nhiều nhất . Riêng đối với đồng bào của ông, Nguyễn chí Thiện được tôn vinh như một anh hùng chống cộng và trở thành biểu tượng của truyền thống bất khuất của dân tộc.
Mối thiện cảm đặc biệt ấy không làm mất đi những nghi ngại theo đó có thể Nguyễn chí Thiện vẫn còn là một người khách lạ trước ngưỡng cửa của thế giới phương Tây. Vì sự cách biệt về mọi mặt giữa hai chế độ " xã hội chủ nghĩa " , nơi ông sống, và " tự do ", nơi ông tìm đến. Vì qua mấy trăm bài thơ của ông, Nguyễn chí Thiện như đã mang tới cả một thế giới hoàn toàn xa lạ với thế giới phương Tây.
Dịch toàn bộ - hay ít ra một số lượng tương đối đủ - thơ của Nguyễn chí Thiện và xuất bản dưới hình thức song ngữ , đối chiếu bản dịch với nguyên tác, là một sáng kiến rất đáng hoan nghênh vì tạo cơ sở hầu tìm hiểu tác giả không qua trích dịch mà qua toàn văn tác phẩm.
Trả Nguyễn chí Thiện về địa hạt thơ
Việc cần làm để giới thiệu Nguyễn chí Thiện , trong những điều kiện đó, sẽ phải là việc trả ông về địa hạt thơ, vị trí hóa thơ ông đối với thơ trên thế giới.
Louis Aragon, một nhả thơ nổi tiếng của Pháp, đã nói, " Chỉ có điên mới viết về thơ. Thơ làm được, không giải nghĩa được...." ( Do Bernard Delvaille trích dẫn trong tạp chí Magazine Litterairé số 247).. Tuy không đến nỗi vậy nhưng quả thật có những khó khăn để nói về thơ Nguyễn chí Thiện. Một phần vì những tin tức liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp văn thơ của ông đều phải tiếp nhận với mọi dè dặt. Phần khác, vấn đề dư luận phương Tây ưu tiên đặt ra không phải là phê bình tác phẩm của ông mà là bảo vệ an ninh, tự do cho ông. Sau hết, Âu Châu là nơi đả sản xuất nhiều nhà thơ lớn, nhiều trường phái về thơ, đã viết cho thơ những trang sử rất phong phú từ nội dung đến hình thức. Để cho thơ Nguyễn chí Thiện đi vào được không gian đó cần phải có một sự dẫn nhập thích đáng về nhân cách của ông, được biểu lộ qua thái độ trước cuộc sống đầy bất hạnh mà ông đã phải gánh chịu, về bút pháp trong thơ ông, đã phản ảnh một cách điển hình và linh động thời đại ông,về sự đóng góp - nếu có - của thơ ông trong thơ của hậu bán thế kỷ thứ 20. Người ngoại quốc , nói chung, khi đọc thơ Nguyễn chí Thiện thường nhận định rằng thơ ông tuy không có sự hỗ trợ của tu từ học ( Rhétorique) mà vẫn xót xa, thống thiết, làm rung động người đọc. Đó là một nhận định căn cứ vào thơ dịch, không phải thơ nguyên tác. Cần phá bỏ được hàng rào ngăn cách về mặt ngôn ngữ để họ đi thẳng vào thơ ông mà thẩm lượng.
Thơ Nguyễn chí Thiện: bản cáo trạng.
Một điều đã được nhiều người nói tới nhiều lần: mấy trăm bài thơ của ông đã hợp thành một bản cáo trạng nghiêm khắc lên án toàn bộ chế độ Cộng sản hiện nay ở Việt Nam và cuộc đời tù tội gần ba mươi năm của ông là một tội chứng hỗ trợ cho bản cáo trạng ấy.
Nói như vậy không sai nhưng không đủ vì chỉ kể kết qủa mà không lý gì tới phương tiện mặc dầu chính phương tiện mới là điều đáng nói trước . Nguyễn chí Thiện đã đóng được trên trán những người cầm quyền Cộng sản dấu ấn tội ác chống con người, chống nhân dân, chống hòa bình, chống tự do, chống công lý. Trước hết, ông là một nhà thơ. Biết bao nhiêu người đã nói những điều Nguyễn chí Thiện nói nhưng đã không tạo được tiếng vang trong dân chúng cũng như trước dư luận quốc tế như Nguyễn chí Thiện. Tuyên dương công trạng cho ông mà chỉ kể ông như một chiến sĩ chống cộng bậc nhất hay như một nhà cách mạng sắt máu là chưa đặt ông đúng vị thế xứng đáng. Sự thật ông chỉ là một nhà thơ đã dám sống chết với thơ của mình, một nhà thơ với một thân hình đau ốm, với một cuộc sống mà tất cả mọi quyền đều bị tước đoạt, nhưng với một vũ khí độc nhất là ngôn ngữ , đã duy trì được một cuộc đối kháng lâu dài chống cả một bộ máy đàn áp khổng lồ mà không bị tiêu diệt.
Thơ Nguyễn chí Thiện : Một thách đố chống bạo quyền
Vinh quang của ông chính là việc ông liên tục hiện diện trong lòng kẻ địch, như một thách đố thường trực, ngạo nghễ. Một thành tích như vậy, chỉ có một nhà thơ mới thực hiện được nhưng không phải bất cứ một nhà thơ nào cũng làm nổi.
Nguyễn chí Thiện thuộc thế hệ những người Việt Nam sinh vào thập niên 30, vào đời đúng lúc đất nước chuyển mình với cuộc chiến đấu của toàn dân giành độc lập. Như mọi thanh niên khác thuộc lớp tuổi mình, ông là sản phẩm của hai nền văn hóa Đông và Tây, được tôi luyện và kết tinh trong cuộc vật lộn của dân tộc với định mệnh để đoạn tuyệt với kiếp sống nô lệ. Trong ông đã vang lên nhiều tiếng gọi thiêng liêng của tiền nhân, của sông núi, của tương lai. Những kiến thức văn hóa đã mang tới cho ông những nhận thức xã hội vững chắc, bén nhậy và tiến bộ để ông kịp thời nhìn thấy nơi Đảng Cộng Sản Việt Nam hành động tiếm đoạt lịch sử , phản bội đồng bào. Và ông đã không khiếp sợ, ngang nhiên chống lại bạo quyền với chí khí, can trường của bậc trượng phu, mẫu người lý tưởng mà ý hệ áp đặt của Cộng sản đã không tẩy xóa nổi trong ký ức tập thể, trong tâm tư của lứa tuổi đã lớn lên bằng biến động của xã hội. Từ nhân cách đặc biệt ấy đã toát ra một bản lĩnh sống rất cao, giúp cho ông có đủ sức mạnh thi gan với kẻ địch.
Chứng từ về lịch sử và dự ước
Những điều đã khiến Nguyễn chí Thiện không giống những người cùng chống đối như ông chính là niềm rung cảm tinh tế của ông. Nhờ rung cảm đó ông nghe thấu được lòng người và - một điều hiếm có - bắt được tần số của lịch sử. Tất cả mọi nhà tù chỉ giam giữ, hành hạ được thể xác ông và hoàn toàn bất lực trước rung cảm của ông.
Với rung cảm của mình, ông như được chắp đôi cánh thiên thần bay khắp đất nước để nhìn sâu tận đáy tần xã hội, mở rộng được tầm mắt hướng về chân trời của tương lai, tìm đường đưa tới giải thoát. Từ một nhân chứng sống của hiện tại, ông đã trở thành một nhà dự ước cho ngày mai.
Trận đánh Đồng Lầy.
Czeslaw Milosz, nhà thơ được giải Nobel về văn học, trong một bài giảng về thơ tại Đại học đường Harvard, đã nêu lên cách một nhà thơ cảm thụ lịch sử. Sử tính, dưới mắt một nhà thơ, không nhất thiết phải là những cảm giác mạnh mọi người đều có về những biến cố lớn như chiến tranh, ngoại xâm.v.v..mà có thể chỉ là những lưu luyến tầm thường về cảnh vật, về người, hay một chi tiết về kiến trúc... Nhà thơ, trước đe dọa bị mất đi những gì mình yêu thương, sẽ vận dụng năng khiếu đặc biệt của mình để đo kích thước thời gian, cảm nhận dĩ vãng, dự báo tương lai.
Với năng khiếu ấy, Nguyễn chí Thiện đã chụp bắt xã hội Việt Nam trong suốt quá trình nó bị Cộng sản hóa. Chụp bắt để diễn đạt một cách có chọn lọc, có cấu trúc, có cường độ,có bề rộng, bề sâu, theo cung cách một nhà thơ.
Trước đây người ta chỉ nhìn nhận là có thơ nếu có vần, có điệu. Gần đây người ta đã đi tới chấp nhận có thể có thơ không cần vần điệu. Nhưng thực chất của thơ không ở nơi vần điệu mà ở nơi hồn thơ, ở tài làm thơ. Fit orator, nascitur poeta, hùng biện nhờ luyện tập, còn thơ thì do bẩm sinh.
Nguyễn chí Thiện có đủ tất cả những gì một nhà thơ cần phải có. Để đi tới kết luận đó, không cần mất công tìm kiếm, chỉ cần đọc bài trường thi Đồng Lầy của ông. Với một hơi thơ dài 480 câu, bài thơ Đồng Lầy đã cho nhìn thấy được một thảm kịch mà cả một dân tộc là diễn viên, mà kịch tính đã đạt tới những giới tuyến cuối cùng của tai họa, từ độ sâu đáy vực đến đỉnh cao của thăng hoa.
Đồng Lầy là một trận đánh thư hùng bằng ngôn ngữ giữa Thiện và Ác, giữa Chính và Tà, diễn ra trước ánh sáng chói lòa của đạo lý, của tình người, của lịch sử.
Nguyễn chí Thiện đã lột mặt nạ cả một tập đoàn tiếm danh- Cộng sản- bắt các phạm nhân thụ hình trên tội ác chất đầy của họ. Nguyễn chí Thiện đã thương xót từng nạn nhân một, tẩm liệm chôn cất những người đã chết, dìu đỡ những người còn sống sót, cùng đau với họ nỗi đau của cuộc đời nửa sống nửa chết. Nguyễn chí Thiện đã phá hủy những thành lũy của tuyệt vọng vây hãm cả một dân tộc và mong mở ra một sinh lộ để nó tự cứu.
Nguyễn chí Thiện đã đột nhiên xuất hiện như một thiên tướng giữa trời thơ, và sau khi chiến thắng, đã bay khỏi chiến địa. Trận đánh Đồng Lầy đã kết thúc. Trắng đen đã rõ, chính tà đã phân định. Từ nay, Cộng sản không còn đồn lũy danh nghĩa để ẩn nấp. Gian dối, lừa lọc, đã hiện nguyên hình. Bên cạnh Đồng Lầy, những bài thơ khác của ông chỉ còn là những vết tích hoang tàn rải rác trên chiến trường. Những thành tựu mà Nguyễn chí Thiện đã đạt được không phải là những thành tựu của chính trị mà của thơ. Nguyễn chí Thiện đã dùng thơ để tấn công kẻ địch, ông nhận diện bằng con mắt của nhà thơ. Ông đã đánh kẻ địch trên chiến trường ông lựa chọn và ông hoàn toàn làm chủ: ngôn ngữ.
Chỗ đứng của Nguyễn chí Thiện trong văn học.
Thơ không khác sự sống còn non trẻ của nhân loại gì cả. Khởi đầu của sự sống là ngôn ngữ và thơ trước hết là ngôn ngữ . Thơ vì vậy gợi lại thuở ban đầu, tượng trưng cho vô nhiễm, trong trắng, vô tội. Cho nên tiếng nói của thơ tự nó là một uy lực có sức nặng không gì lay chuyển nổi, là một hệ thống vũ khí mà sức công phá không gì chống đỡ được. Bằng thơ của ông, Nguyễn chí Thiện đã hạ bút khai tử, trong lòng người, cả một chế độ. Phần còn lại, không phải việc của nhà thơ mà của người làm chính trị.
Khi nói thơ mình không phải là thơ (Thơ của tôi không phải là thơ. Mà là tiếng cuộc đời nức nở ) , Nguyễn chí Thiện đã lựa chọn đứng lại trong " Đồng Lầy", như một người tu hạnh bồ tát, nguyện ở lại địa ngục với chúng sinh. Ông không mơ ước thành Thi sơn hay Thái Sơn hoặc Hy Mã Lạp Sơn, mà chỉ muốn kết tinh được tất cả những " khổ nhục không tưởng tượng nổi của dân tộc " ông, dù thơ ông có bị lây chất dơ của một thực tại xã hội đau ốm nghèo đói vùi dập đám dân chúng đang rên siết dưới gông cùm của áp bức, lừa lọc, hung bạo. Ông đã hiểu rõ những gì đang chờ đợi ông, giá mà ông phải trả cho sự lựa chọn đó. Và ông đã trả giá bằng sự tù tội của chính mình.
Thơ Việt Nam có cả một quá khứ xa dài mấy ngàn năm của một cuộc sống chung giữa hai dòng thơ: thơ nói xuất phát từ dân gian và thơ viết du nhập từ Trung quốc. Giữa tiền bán thế kỷ 20, thơ của Pháp đã mang đến cho thơ Việt Nam một sức sống, hình thành thêm một dòng thơ thứ ba thường được gọi là thơ mới. Dòng thơ này đã trải qua tất cả những kinh nghiệm mà các trường phái Thi Sơn, Lãng Mạn, Tượng Trưng, Siêu Thực, Biểu Hiện..đã trải qua để đổi mới thơ của Pháp. Trong cơn thức tỉnh của dân tộc sau đệ nhị thế chiến, thơ mới lại thoát xác lần nữa.
Tại miền Nam, thơ đã rời những đỉnh cao, những tháp ngà, những hang động huyền bí để hòa mình vào số đông , để " không còn cô độc" nữa. Cuộc tái sinh của thơ miền Nam thật ra chỉ là sự biểu hiện của bản năng muốn trở lại " thuở ban đầu ", nói tiếng nói đầu mùa của tháng Giêng để đâm chồi nẩy lộc. Trong cơn vật vã rũ bỏ những khuôn sáo đã cằn cỗi của ước lệ, có lúc nó không còn giữ được bộ mặt quen thuộc của thơ vì nó tự đập vỡ hình hài, triển khai một sức sống vũ bão, lạnh lùng, chối từ vuốt ve của mộng ước, tiện nghi của siêu thoát, son phấn của hóa trang. Nó muốn đứng giữa cuộc đời , chiếu dọi vào cuộc đời cái nhìn thơ dại để quán triệt cuộc đời mà không cần sự đưa dắt của triết thuyết hay chủ nghĩa, ý thức hệ.
Tại miền Bắc, thơ đã bị chiếm đóng bởi ý thức hệ, bởi quyền lực, nên nó đã không tìm được con đường tái sinh theo bản năng. Nó phải mang cùm xích của Chủ Nghĩa, của Đảng, bị ép buộc phải rẽ ngang vào con đường phải phục tùng, của giáo điều , của suy tôn, của gian dối. Nó không còn vô nhiễm vì đã bị ô nhiễm để chỉ còn là thủ thuật nịnh hót Bác Đảng. Tiếng thơ đã bị bóp nghẹt sau cuộc vùng dậy ngắn ngủi của Nhân Văn Giai Phẩm.
Nguyễn chí Thiện đơn độc tiếp tục cuộc vùng dậy ấy một cách bất khuất và tài trí. Ông đã mang trong ông cả lịch sử thi ca Việt Nam để vận dụng ngôn ngữ, kết hợp ảnh tượng, sắp đặt âm thanh, phân bố ngữ điệu và nhất là đã sáng tạo ra những tên gọi mới của Tội Ác, của Đọa Đày, của Khổ Nhục, của Hy Vọng. Thơ của ông là chất liệu của văn học Việt Nam từ đầu hậu bán thế kỷ thứ 20. Trong đổ vỡ hoang tàn, ông đã tồn trữ được cả một kho ngôn ngữ thơ. Trong cuộc giao tranh giữa những thế lực tiến bộ và phản động của một xã hội đang chuyển mình để thay đổi vận mạng, ông cho thấy người làm thơ nên chọn thái độ nào.
Ông đã đóng góp bằng tác phẩm " Hoa địa ngục " vào cuộc tranh luận rất cổ điển giữa hai quan niệm về thơ: thơ thuần túy và thơ ngẫu cảm. Ông làm thơ như Goethe đã nói từ đầu thế kỷ trước, " Thơ của tôi là thơ ngẫu cảm, xuất phát từ thực tế và dựa trên thực tế. Tôi không cần đến những loại thơ bâng quơ. " Thơ ông không phải là thơ của những người " nói mà không biết " mà là thơ để nói thay cho những người " biết mà không nói". Thơ ông cũng là nguyên mẫu của một loại thơ " dấn thân" , không chịu sự chỉ huy của bất cứ chủ nghĩa, tổ chức nào. Thơ ông chỉ là những " tiếng đời nức nở " đã được ông đưa lên - nói theo cách Victor Hugo đã nói - những sự kiện lịch sử, bằng kỹ năng của bút pháp. Ông không phải chọn lọc đề tài cho thơ ông. Tất cả những gì ở chung quanh ông và đã đến với giác quan ông đều có thể biến thành thơ.
Apollinaire cho rằng nhà thơ không cần kiếm những tuyệt vời, mà có thể tìm cảm hứng ở một việc vặt hàng ngày. Một chiếc khăn tay rơi cũng đủ làm đòn bẫy để nhà thơ bẫy cả vũ trụ. Gustave Flaubert cũng có một ý kiến tương tự, " Tất cả đều tùy thuộc vào bút pháp. Truyện một con rận có thể hay hơn chuyện Alexandre."
Nguyễn chí Thiện là một trong những ngòi bút rất hiếm ở miền Bắc còn giữ được sợi dây liên lạc của Văn Học Việt Nam trải qua những đổi thay về chính trị. Không thể nói tới thơ Việt Nam vào hậu bán thế kỷ thứ 20 mà lại bỏ quên thơ Nguyễn chí Thiện, trong đó đã được ghi khắc bước đi của lịch sử dân tộc trong hơn ba mươi năm qua.
Những tên gọi mới của tội ác.
Nhân loại đang bước vào thế kỷ thứ 21 với những kỳ công của khoa học, với tham vọng chính mình nắm trọn trong tay vận mạng của mình. Không còn chơi vơi giữa cực tiểu và cực đại, nhân loại tin đã đạt tới cực tiểu và bắt đầu cuộc hành trình tiến vào cực đại. Con người tự coi là trung tâm của chính mình. Nó hầu như biết tất cả nên mất đi những cảm giác về huyền diệu,về thiêng liêng. Vì vậy nét đậm của thơ cuối thế kỷ 20 là ủ ê, rầu rĩ.
Cũng là một điều dĩ nhiên nếu nhà thơ Nguyễn chí Thiện được tiếp đón như một khách lạ. Con người hôm nay có thể đã quên đi bộ mặt hôm qua của mình và, tới một lúc nào đó, không cảm thấy sự cần thiết phải quay về dĩ vãng tìm hình bóng cũ. Nên trách người làm thơ không rảo bước hay trách người đi trước đã quá mau? Một câu hỏi không nên vội trả lời.
Nguyễn chí Thiện cũng như nhiều nhà thơ Việt Nam khác đã xuất nạp vào lương tâm con người những từ chứng của một nhân chứng thời đại. Nếu thơ hiện nay không còn bị huyền diệu, thiêng liêng quyến rũ, không còn phải giữ vai trò ứng trước hạnh phúc, nó vẫn còn phải nói đến đau khổ của con người, những đau khổ không phải là sản phẩm của tưởng tượng mà của thực tế. Chủ nghĩa cộng sãn đã được loan báo như một phương thuốc cứu khổ không thể tránh khỏi. Dân chủ tự do được ca ngợi như hạnh phúc không có không được của con người. Cuộc tranh chấp giữa Cộng sản và tự do đã tạo ra cho dân tộc Việt Nam những đau khổ, nhục nhã cho đến nay chưa có tên gọi. Đó là bản kết toán hùng hồn mà thơ Nguyễn chí Thiện đã đưa ra trước dư luận.
Cái khó khi nói về thơ Nguyễn chí Thiện có lẽ là việc phải tìm ra được những tên gọi để đánh giá sự thành công của ông trong cuộc dấn thân đầy can đảm mà ông đã làm để thể nghiệm và nói lên một cách đích thực những đau khổ và nhục nhã ấy. Nguyễn chí Thiện không có, hay chưa có, hào quang của một nhà thơ lớn. Sự thật ông không mang hoài bão đó. Ông rất khiêm nhường. Ông đã nói những điều ông nghe thấy, nhìn thấy, cảm thấy bằng kinh nghiệm bản thân. Ông không đòi quyền, chiếm quyền hay trao đổi quyền lợi, nghĩa là ông không có tham vọng chính trị. Ông chỉ có một mơ ước là thơ ông có thể giúp càng nhiều người ý thức được rằng chủ nghĩa Cộng sản là họa lớn của nhân loại. Như họa lớn đã đến với người Việt Nam kể từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền tại nước này. Chưa biết những người đọc thơ ông sẽ tiếp thu ra sao thông điệp của ông. Nhưng chắc chắn họ sẽ phải se lòng vì sự vắng mặt của ông trên cõi đời này. Ai có thể nói chắc rằng ông vẫn còn bị cùm xích trong một nhà tù đâu đó hay ông đang " khóc âm thầm trong đất", thương nhớ những vần thơ ông đã "viết ra trong đêm tối đê hèn"?"
Sau khi tập thơ " Hoa địa ngục " ra đời năm 1980, các bản dịch thơ sang tiếng ngoại quốc lần lượt ra đời. Từ bản dịch Pháp văn của báo Quê Mẹ bên Pháp đến những bản dịch Anh văn của học giả Huỳnh sanh Thông và giáo sư Nguyễn ngọc Bích. Song song với các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp, có bản dịch tiếng Đức của Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi. Ông có một bài viết để bộc bạch tâm sự của ông khi quyết định dịch tập thơ ra tiếng Đức, thêm vào đó ông đưa ra những nhận xét về nghệ thuật cũng như tác dụng chính trị của tập thơ. Trong bài viết " Nguyễn chí Thiện , anh hùng dân tộc và thi nhân tuyệt vời" , ông bày tỏ những suy nghĩ chân thành, xúc cảm và sâu sắc như sau:
" Lý do nào đã thúc đẩy dịch giả đem thơ Nguyễn chí Thiện phổ biến cho người ngoại quốc? Lý do thứ nhất, rất giản dị, là vì dịch giả yêu thơ Nguyễn chí Thiện và tin rằng với một tác phẩm đầy ứ chất liệu văn chương và chan chứa tình tự dân tộc, Nguyễn chí Thiện sẽ được dành một địa vị quan trọng không những trong nền văn học nước nhà mà cả trên văn đàn quốc tế. Lý do thứ hai cũng không kém phần quan trọng, dịch giả xem việc dịch thơ Nguyễn chí Thiện như một sứ mạng và muốn đáp ứng một lời kêu gọi, một thông điệp mà Nguyễn chí Thiện đã gửi đến tất cả những người được may mắn đọc ông : phổ biến thơ ông thật rộng rãi để thế giới bên ngoài biết thêm sự thật về Cộng sản Việt Nam.
Qua mấy chục năm giam hãm tù đày, khi mọi liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bị gián đoạn . Nguyễn chí Thiện vẫn hằng ấp ủ trong lòng hoài bão nối được nhịp cầu với đồng hương bên kia song sắt nhà tù và với tất cả những người yêu chuộng tự do khắp năm châu bốn bể, để những sự thật ông phơi bày, những tâm sự ông thổ lộ và những lời kêu than thống thiết mà ông phải " dùng tuổi thọ " để viết ra với ước mong vượt mọi ngăn cách không gian đến với độc giả càng nhiều càng tốt.
" Tôi muốn kêu to trong câm lặng đen dày
Cho nhân loại trăm miền nghe thấy "
Hoài bão ấy không do tham vọng văn chương, cũng không do ước muốn tạo cho mình một lợi thế cá nhân, một sự yểm trợ hoặc giải cứu từ bên ngoài. Nguyễn chí Thiện chỉ mong cho dân tộc mình được thoát nạn, còn riêng bản thân ông sẵn sàng chấp nhận những cực hình đau đớn nhất, chấp nhận cuộc đời vùi sâu cuộc đời tàn tạ dưới nấm mồ tuyệt vọng, miễn là thơ ông được " tự do như gió...bay khắp địa cầu kêu cứu nhân gian. Trừ Cộng sản."
Nguyễn chí Thiện đinh ninh rằng với thời gian Cộng sản sẽ bị tiêu diệt nếu mọi người thức tỉnh sáng suốt nhận diện được kẻ thù đã xô đẩy Việt Nam và " một phần ba nhân loại " xuống " hầm tai vạ " và đang đe dọa trở thành hiểm họa số một cho toàn thế giới.
" Nếu nhân loại mọi người đều biết
Cộng sản là gì tự nó sẽ tan đi
Thứ sinh thành từ ấu trĩ ngu si
Sự hiểu biết sẽ là mồ hủy diệt "
Bốn câu thơ trên đây không chỉ gây hứng thú cho người đọc vì tư tưởng đặc sắc mà còn là một ví dụ tiêu biểu cho lối hành văn độc đáo của Nguyễn chí Thiện , nó vừa cô đọng vừa chính xác làm nổi bật mối tương quan tất yếu giữa sự hiểu biết về Cộng sản và sự quyết tâm tiêu diệt chúng. Và Nguyễn chí Thiện đã giải thích thêm về mối tương quan ấy bằng hai câu thơ cũng không kém phần đặc sắc,đọc lên nghe đanh thép hùng hồn như lời buộc tội kết thúc bản cáo trạng:
" Tội chúng phạm vô cùng man rợ
Lộ ra ai để chúng sinh tồn "
Theo Nguyễn chí Thiện, sỡ dĩ Cộng sản còn tồn tại và bành trướng được là vì loài người còn " mê muội " . Vì thế thơ ông có rất nhiều đoạn trong đó ông trực tiếp gửi lời nhắn nhủ thế giới. Khi thì chỉ trích thái độ vô tâm, hờ hững, hoài nghi, bịt tai bưng mắt trước những tiết lộ rùng rợn của các nạn nhân. Khi thì kêu gọi thế giới đến tận nơi để chứng kiến những phương sách tàn bạo đã được bưng bít tinh vi ( " xin mời thế giới tới thăm " ) . Điều làm Nguyễn chí Thiện phẫn nộ nhất là đã có những bậc vĩ nhân kiểu Bertrand Russell, tiêu biểu cho tầng lớp trí thức mù quáng đã dùng uy tín quốc tế của mình để tuyên truyền cho Cộng sản.
Từ trong ngục tối, Nguyễn chí Thiện đã hiểu được tầm quan trọng của dư luận quốc tế và vì thế ông đã cố gắng cho tác phẩm mình lọt được ra ngoài, dầu biết rằng hành vi liều lĩnh ấy sẽ mang đến cho ông những cực hình ghê gớm. Để tiếp nối hành vi cao cả ấy, chúng ta, những người đang được may mắn trực diện với dư luận quốc tế, chúng ta phải phá bỏ hàng rào ngôn ngữ để thơ Nguyễn chí Thiện đến với người ngoại quốc. Phổ biến thơ Nguyễn chí Thiện là một nhiệm vụ thiêng liêng và dịch thơ Nguyễn chí Thiện là để khiêm tốn góp phần vào việc thực hiện hoài bão soi sáng dư luận quốc tế mà ông hằng ôm ấp.
Sự đọa đầy vô tiền khoáng hậu của cả một dân tộc đang bị thế giới quên lãng. Thảm trạng Việt Nam ngày càng vắng bóng trên địa hạt truyền thông quốc tế. Điều đó phải thúc đẩy chúng ta nỗ lực giúp cho tiếng nói trung thực của những chứng nhân như Nguyễn chí Thiện vượt mọi chướng ngại đi thẳng vào lòng người, vừa để tội trạng của bạo lực được phơi bày vừa để người ngoại quốc có dịp biết đến tác phẩm xuất chúng của một thi nhân Việt Nam mà hồn thơ và tài nghệ đã oai hùng cưỡng lại sức công phá của một guồng máy khủng bố tàn bạo.
Thật vậy, cái đặc sắc của Nguyễn chí Thiện không chỉ nằm trong địa hạt chính trị, không chỉ do danh hiệu " Ngục sĩ" mà người ta đã tặng cho ông. Nguyễn chí Thiện còn đáng cho chúng ta nhắc nhở và bái phục vì tài nghệ siêu cường trong địa hạt thi ca. Với tài nghệ đó, ông đã cống hiến cho ta một tác phẩm mà văn học sử nước nhà sẽ mãi mãi lưu danh. Và trên trận tuyến chống bạo quyền, thi phẩm tuyệt vời của ông đã trở thành một hệ thống vũ khí vô cùng sắc bén. Thơ Nguyễn chí Thiện không phải là một tác phẩm đấu tranh có tác dụng nhất thời mà mãi mãi sẽ là tiếng nói của con người muôn thuở .
Thoát thai từ một thực tế phũ phàng cay đắng, toàn bộ thơ Nguyễn chí Thiện đã lấy thực tế đó làm đề tài duy nhất, nhưng lời diễn tả thì thiên hình vạn trạng nhờ vào bút pháp phong phú linh động, chuyển biến theo từng cảnh ngộ trong cuộc sống và theo từng nhịp đập của con tim.
Thơ Nguyễn chí Thiện khi tả người và sự việc thì vẽ nên những bức tranh đậm nét in sâu vào trí tưởng tượng của người đọc, khi than van thì khơi dậy niềm thương cảm xót xa vô hạn, khi buộc tội lên án thì tạo được niềm căm phẫn sục sôi, khi cổ võ kêu gọi thì lời thơ hùng hồn có một sức thu hút mãnh liệt... Toàn bộ tập thơ tạo thành một bản đại hòa tấu bi hùng đầy máu lệ mà cũng hừng hực chí khí quật cường.
Tiếc rằng khuôn khổ bài này không cho phép phân tích toàn bộ tác phẩm. Xin hẹn độc giả dịp khác sẽ trình bày tường tận hơn. Ở đây chỉ xin nêu lên vài chi tiết về hai điểm: Bức tranh địa ngục và ý chí đấu tranh đặt trên niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa.
Là " Ngục sĩ ", đề tài được Nguyễn chí Thiện nói đến nhiều nhất là chế độ lao tù Cộng sản. Khi tả chân, khi kể chuyện, khi suy tư, Nguyễn chí Thiện đã phác họa cho ta thấy cả một quang cảnh hãi hùng ghê rợn. Không thể kể hết những bài, những câu tả cảnh " triền miên đói khát ", cảnh bệnh thập tử nhất sinh ( " nhát nhát em ho. Từng miếng phổi tung rời . Bọt sùi đỏ thắm ") mà vẫn phải lao động đến kiệt lực ( " ốm ngồi rên báng súng thúc vào lưng " ), cảnh hành hạ ( " đánh đập tha hồ chết quăng chuột gặm " ) cảnh sống hôi hám bẩn thỉu như súc vật : ( chỗ nằm giữa " thùng nước giải, thùng phân ", chỉ vỏn vẹn chiếc chiếu rộng sáu mươi phân mà " hai người bên, một hủi một ho lao" )
Cuộc sống thường nhật trong lao tù đã được Nguyễn chí Thiện ghi lại bằng những hoạt cảnh vừa linh động, vừa thương tâm. Ví dụ cảnh mấy tù nhân đầu bạc dành nhau một nắm cơm vương vãi trộn đầy đất cát. Sự tương phản giữa ý niệm tuổi tác khả kính ( " đầu bạc " ) và những hành vi khả ố như súc vật ( " nhanh như một đàn heo', " dẫm trèo lên nhau" , " lầu bầu chửi nhau " )đã nói lên sự thật đau lòng là chế độ lao tù tàn bạo bất nhân không những đày ải con người vào kiếp ngựa trâu mà còn làm con người mất cả nhân tính. Làm què quặt tâm hồn độc hại thì còn độc hại gấp trăm lần hành hạ thể xác. Nguyễn chí Thiện hẳn đã thấy lòng quặn thắt xót xa khi viết: " Trong tù tình cảm dễ đong ao. Tư cách thìa cơm đánh lộn nhào ".Bên cạnh cái tàn nhẫn, độc ác, Nguyễn chí Thiện còn vạch cho ta thấy một khía cạnh khác của bản chất chế độ lao tù Cộng sản: bỏ tù người vô tội một cách bừa bãi, không luật lệ, không xét xử: " Tội hay vô tội luật nào xét cho" hoặc " Hễ nghi là bắt cứ chi tội tình ". Nguyễn chí Thiện đã lên án chính sách bỏ tù độc đoán bằng hai câu thơ vừa mỉa mai vừa mạt sát : " Đảng không tim óc, đui mù. Nhưng môn vô tội om tù quán quân ".
Giam cầm và hành hạ người vô tội chưa đủ, tù còn là một phương cách bóc lột đến tận cùng. Nguyễn chí Thiện đã dùng ngay những danh từ Cộng sản thường dùng để gọi những nhà tù là " khu sản xuất bội thu hàng đầu", là " ngành kinh tế vô song". Đảng đã biến tù nhân thành những " con vượn thời tiền sử ", vì đói ăn nên gầy còm, ốm yếu nhưng lại , " làm ra của cải quanh năm". Tù nhân đã đột nhiên biến thành những tên khổ sai bị vắt đến giọt mồ hôi cuối cùng để hoàn thành chương trình " hút máu mài xương " của Đảng. Thảm cảnh " lao động vinh quang" đã được Nguyễn chí Thiện dùng biệt tài sử dụng ngôn ngữ của ông để viết thành những lời tố cáo vạch trần chính sách bóc lột tàn tệ của Cộng sản, " Những người trâu đầm mình trong bùn đọng " hoặc " Trong hầm trong xưởng rũa gân xương".Hoặc " Đất mồ hôi trôi mất nụ cười" , " Các loại mồ hôi đều chảy vào kho", " Lũ chúng bay phải làm việc bằng hai. Để quỷ chúa mừng sống lâu trăm tuổi", " Chỉ còn lại chút mồ hôi. Đổ ra vì sợ vì nuôi Đảng hiền".
Một đặc điểm khác là bỏ tù trẻ con : " Trẻ con chưa nứt mắt đã đi tù. Bạo lực đi về rất vội." Nguyễn chí Thiện đã gặp hàng ngàn trẻ em mà cảnh đời tù tội- thường là vô duyên cớ- đã giết mất những ngây thơ hồn nhiên, chỉ còn để lại một khối hận thù biến các em thành những tên trộm cướp hung bạo: Có những em lúc mới vào tù thì còn " Lon xon chưa phải mặc quần",mà sau đó đã trở thành " Mặt mũi vêu vao tính tình hung tợn. Mở miệng là chửi bới chẳng từ ai. Có thể giết người vì củ sắn củ khoai ". Thảm trạng này đã làm Nguyễn chí Thiện vô cùng xót thương ray rứt và bằng một giọng căm phẫn chua chát, ông đã gọi đích danh thủ phạm để luận tội: " Đảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp."
Dưới chế độ Cộng sản, lao tù không còn là phương tiện bảo đảm sự thực thi luật pháp và bảo vệ an toàn cho người dân lương thiện trước sự đe dọa của kẻ bất lương. Tù đã thành phương tiện để củng cố nền độc tài chuyên chế. Nguyễn chí Thiện đã gọi nhà tù là " cột trụ " của chế độ : " Thiếu chi rừng rú hoang vu. Để.. dựng các trại tù làm trụ". Nơi khác, Nguyễn chí Thiện đã dùng chữ " buồng tim chế độ" để nói lên bản chất của chế độ lao tù. Buồng tim là mạch sống, là chìa khóa của sự tồn vong. Nếu không có cả một hệ thống lao tù " bao la giăng mắc "mà Nguyễn chí Thiện còn gọi là " bộ máy tù đày bằng sắt " hoặc " muôn trùng hệ thống xiềng gông " thì chế độ sẽ không tồn tại được , " Mười mấy năm sống giữa lao tù. Sống giữa buồng tim chế độ. Tôi đã hiểu tới tận cùng bể khổ. Mà ngày xưa Phật Tổ hiểu lơ mơ."
Bốn câu này vừa khẳng định lao tù là cốt tủy, là huyết mạch của chế độ, vừa diễn tả một cách bóng bẩy mức độ đọa đày trong ngục thất. Có ai hiểu sự khổ não trên trần thế bằng Phật Tổ, nhưng so với cực hình mà Nguyễn chí Thiện và các tù nhân khác phải chịu thì ý niệm về " bể khổ" của Đức Phật quả còn thua xa thực tế. Ngoài những nhà tù chính hiệu, Nguyễn chí Thiện còn phác họa cái nhà tù khổng lồ bao trùm trọn miền Bắc Việt Nam ( Và như ta biết sau 1975 miền Nam cũng đã trở thành nhà tù bao la rập theo khuôn mẫu miền Bắc). Ngay cả những người không ( hay là chưa) bị vào tù thì cũng đã bị lừa vào trong màn lưới sít sao của kiểm soát, đe dọa, ngày đêm khắc khoải trong hồi hộp, lo âu. Như người thợ nhiếp ảnh tài tình, Nguyễn chí Thiện đã dùng ngôn ngữ thu trọn vào ống kính bức tranh ảm đạm của một xã hội nghẹt thở, đắm chìm trong thấp thỏm lo sợ. Vì bất cứ lúc nào người dân cũng có thể đột nhiên trở thành " khốc liệt, bậy xằng , ức oan, cay đắng " nên chỉ mới nghe " hiu hiu gió đã run rồi". Ngay cả những người hoàn toàn bị khuất phục, đã thi hành tất cả mọi chỉ thị dầu là chỉ thị phi lý, đã nhận chìm tất cả những lời kêu ca than oán mà vẫn phập phồng : " Bắt chước mọi người tôi giữ vẻ hân hoan. Chẳng dám thở than dù đời đói khổ. Nhưng khi tiếng bên lề đường xe đỗ. Tôi vẫn giật mình tưởng xe sở Công An".
Người dân bị tước đoạt tất cả mọi quyền tự do đương nhiên, bị kềm kẹp trong những cấm đoán phi lý ( bà già sáu mươi " không được phép ngồi bán khoai") bị cưỡng ép đi hội họp ( cụ già bẩy mươi hai phải " hội họp mệt nhoài không tha") đi lao động ( em bé phải bỏ học đi công trường ). Chuyện " vô cớ đi tù" là chuyện cơm bữa đối với cả những người lương thiện, hiền lành vô tội nhất ( " Toàn dân lương thiện tội tình gì đâu") như cụ già nọ " Từ trẻ tới già quét dọn nhà tu. Tới tuổi bảy mươi vô cớ đi tù" và cuộc đời tù tội đã kéo dài mười năm cho đến ngày " gần tám mươi cụ bỏ xác trong tù".
Sự khống chế toàn diện, nghiệt ngã , phi lý được Nguyễn chí Thiện diễn đạt bằng những câu , " Đảng bắt câm, bắt nói, bắt khóc, bắt cười. Bắt đói, bắt làm, hé răng oán thán. Là tù ngục mục xương độc đoán" hoặc " Đảng đã nắm là dân hết cựa", " Cộng sản là quân bất nhân tàn ngược. Thắt cổ dân đen bằng các mọi tròng". Và bốn câu sau đây , tuy dùng những danh từ đơn giản , nhưng có một tác dụng văn chương rất thần tình, tạo cho người đọc ấn tượng của một màn lưới không kẻ hở:
" Đảng gói ước mơ vào trang manh áo
Đảng nhét chí trai vào trong hũ gạo
Bảo quản thế Đảng vẫn còn sợ hão
Đem xếp vào trong cả nhà lao"
Điều đập vào mắt người đọc trước tiên là sự tương phản giữa " ước mơ " và " manh áo ", giữa " chí trai " và " hũ gạo ", " ước mơ " và " chí trai " thuộc địa hạt tâm linh, bao gồm những điều đẹp đẽ, cao qúi của cuộ sống,còn " manh áo " và " hũ gạo " thuộc lãnh vực vật chất, là những vật tuy cần thiết nhưng nhỏ nhoi , tầm thường. Chữ " gói" và chữ " nhét" còn làm tăng thêm ấn tượng chật hẹp, gò bó, khép kín bao hàm trong chữ " manh" ( áo) và " hũ" ( gạo). Chữ " bảo quản" nói lên ý niệm bức bách, quản thúc, kềm kẹp. Chữ " xếp" trong câu thứ tư ( " xếp cả vào trong các nhà lao") được dùng thay chữ " nhốt" , phải chăng cũng có dụng ý nói lên sự kiện số lượng tù nhân quá nhiều nên phải được " xếp" ( như xếp áo vào tủ) mới đủ chỗ chứa. Một điểm khác đáng chú ý là trong vỏn vẹn có bốn câu thơ mà tác giả lập đi lập lại hai chữ " vào trong " đến ba lần( " vào trong manh áo', " vào trong hũ gạo", " vào trong các nhà lao " . Ai cũng biết khi hành văn mà lặp lại nhiều lần một chữ là điều tối kỵ, nhưng ở đây sự lặp lại này đã tô thêm đậm nét hình ành cả một dân tộc đang bị xô đẩy " vào trong" ngõ cụt không còn lối thoát. Những nhận xét trên đây cho ta thấy ngay trong cách chọn lọc, sử dụng và sắp xếp danh từ, Nguyễn chí Thiện đã làm cho người đọc lĩnh hội một cách sâu sắc mãnh liệt những điều ông muốn nói. Viết văn, làm thơ không phải chỉ là diễn tả những ý niệm nằm trong danh từ mà là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để vượt ra ngoài ngôn ngữ nhằm gợi hình ảnh, gây ấn tượng, kích thích trí tưởng tượng và chấn động cân não người đọc, nhờ đó nội dung được siêu thăng và trở thành phong phú hơn.
Chính sách bỏ tù cả dân tộc đã được áp dụng một cách triệt để trong hai lãnh vực: Tận diệt quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và dùng miếng ăn để nô lệ hóa con người.
Nghĩ khác và nói khác với lập luận của Đảng là một trọng tội mà hình phạt là lao tù vô thời hạn: " Hơi nghĩ khác là đi tù mục xác." Sự hà khắc của Đảng không giới hạn vào việc cấm đoán và trừng phạt tiếng nói đối lập chính trị. Than van để trút bớt ưu tư phiền muộn cũng là trọng tội, là phản tuyên truyền: " Tiếng thở lời than đan họa chụp vào thân". " Kêu ca khổ ải " đã là nguyên nhân đưa Nguyễn chí Thiện vào tù, như ông tiết lộ trong bài thơ " Thư Nhà ". Cả đến thở dài cũng trở thành đối tượng của hăm dọa, khiển trách: " Thằng kia sao dám thở dài?"
Tước đoạt hoàn toàn quyền suy nghĩ, ăn nói, than van, chừng ấy vẫn chưa đủ. Người dân còn bị cưỡng ép đóng kịch, phải tươi cười, phải hân hoan; " Thằng này, sao mặt mày không hớn hở ? " Tất cả những biện pháp cưỡng bức trên đây còn được Nguyễn chí Thiện gọi là " bỏ tù tiếng nói", ' là " canh rình lời than tiếng thở " , là " khóa mồm dân" . Mục tiêu của chúng vừa nhằm vô hiệu hóa đối lập, tiêu diệt mọi mầm mống chống đối từ lúc chưa phôi thai, vừa để bưng bít tội ác trước dư luận, khoác lên nền chuyên chế một lớp áo tuyên truyền lừa bịp, đeo cho hỏa ngục chiếc mặt nạ khả ái của thiên đường. Bằng những thủ đoạn ấy, bạo quyền đã đạt được mục đích là làm cho thế giới của khổ nhục trở thành thế giới của câm lặng.
Danh từ " câm lặng " , " thầm câm", " lặng lẽ", được Nguyễn chí Thiện dùng rất nhiều trong tập thơ ông, và đã làm nổi bật cảnh thương tâm của những người quằn quại trong vực thẳm khổ đau mà không " kêu nổi một lời "
" Hỡi tất cả những chân trời sáng chói!
Hãy hiểu rằng yên lặng nơi đây
Giũa chốn đồng lầy
Là tiếng gọi lâm ly đầy tuyệt vọng "
Đem bức màn im lặng phủ kín thế giới của thống khổ đọa đày là hành vi điển hình của chính quyền Cộng sản. Hành hạ thể xác chỉ là bề mặt, mục tiêu tối hậu là tiêu diệt linh hồn.
Hơn ai hết, Nguyễn chí Thiện đã nghiệm ra điều đó qua những năm tháng câm lặng trong uất ức nghẹn ngào:
" Mắt tôi khô
mà ruột tím gan bào
Bao uất hận dâng trào lên lặng lẽ".
Và ông đã gởi vào thơ ông lời buộc tội gắt gao thâu tóm được bản chất tàn độc của chính sách giết người bằng cách bóp chết tiếng nói : " Nó dùng máu hãm những giòng nước mắt. Vắt những giọt mồ hôi. Bịt tiếng người câm bặt. Mong bốn phương lặng ngắt giữa cơ hàn. Để nó tự do vang dạo khúc đàn. Yêu ma..."Lời buộc tội trên đây, cũng như bao lời buộc tội khác trong thơ Nguyễn chí Thiện, nếu được đọc lên trước một tòa án công minh, hẳn không còn có vị thẩm phán nào có thể hoài nghi hay do dự trong việc phân định tội trạng và hình phạt.
Hủy diệt tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, là đặc điểm của tất cả mọi thứ độc tài kim cổ và xưa nay đã có vô số người tố cáo. Nhưng bút pháp thần tình của Nguyễn chí Thiện làm cho độc giả có cảm giác như sờ mó được cái độc hại , cái nguy hiểm của quái vật độc tài mà nanh vuốt là thủ đoạn " bỏ tù tiếng nói " . Thêm vào đó là biện pháp dùng đói khổ như một thứ xích xiềng để nô lệ hóa. Nguyễn chí Thiện đã đặt tên cho thủ đoạn này là " quốc sách đói mòn phân phối " . Mỉa mai thay mà cũng xác thực thay ! Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ mà Nguyễn chí Thiện điểm mặt được cả một chế độ, đã nâng sự bần cùng hóa nhân dân lên hàng quốc sách, để giết chết sự quật cường, để đè bẹp chống đối. Thê thảm hơn nữa là tình trạng " Hạt thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng. Họa phúc toàn quyền của Đảng". đã khiến con người không thể nào bảo toàn được nhân phẩm. Tình cảm, nhân cách, luân thường, đạo lý, tất cả đều bị xáo trộn, tiêu hao , tan nát. Những câu thơ được trích dẫn dưới đây vừa lột trần hậu quả khủng khiếp của " quốc sách đói mòn ", vừa cho độc giả một ý niệm về biệt tài vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn chí Thiện:
"Lảo đảo vì buồn đói
Xanh xao cả giống nòi
Rồng tiên thành rợ mọi
Đuôi cáo thực sự tòi !"
" Thú thật là dân đói chúng tôi
Chỉ mơ ước được no bằng con vật "
" Nơi đây không có gì hơn sắn
Người hóa thành ra lũ lợn rừng
Gan óc teo dần, tim chết cứng
Hồn con ma đói dắt đi chăn "
" Chế độ ta khoai sắn một đề tài
Cũng bất diệt như đề tài trai gái"
" Khoai sắn tranh giành cùm bắn chém băm"
" Tư cách thìa cơm đánh lộn nhào"
" Chiếc kéo Đảng dùng cắt tem phân phối
Gạo ngô từng lạng từng cân
Đã cắt nhỏ tình thâm cốt nhục
Manh áo niêu cơm cuộc đời rữa mục"
Những phân tích sơ lược trên đây cho ta thấy danh từ " địa ngục " không phải là một hình thức phóng đại, một kiểu nói văn chương, mà là một tên gọi xác đáng để chỉ cái thực tại mà chính Nguyễn chí Thiện cũng đã phải công nhận là " Chuyện có thực mà tưởng như thần thoại. Mà tưởng như ác mộng bi ai ". Nguyễn chí Thiện đã có công tạo những danh từ , những hình ảnh để phơi bày bằng nét bút sắc và đậm bộ mặt đa dạng của bạo lực. Ngôn ngữ của Nguyễn chí Thiện đã có tác dụng của những quang tuyến diệu kỳ, của những " chiếu yêu kính " khiến cho hồ ly phải hiện nguyên hình và những ngụy trang lừa bịp không còn hiệu nghiệm. Nguyễn chí Thiện vừa tố cáo tội ác trước công luận một cách hùng hồn, vừa làm phong phú kho tàng ngôn ngữ chúng ta. Chỉ cần làm một bảng thống kê những từ ngữ ông dùng để chỉ Bác và Đảng và cái thế giới mà Bác và Đảng thống trị cũng đủ cho ta phải ngạc nhiên và thích thú về cái kho tàng ngôn ngữ hầu như bất tận của ông. Với lối diễn tả thần diệu của ông khi nói về tội trạng của chế độ , khi vẽ lên cảnh tù đày, đói khổ, bệnh hoạn hoặc niềm khao khát vô vọng của những kẻ " không còn gan nghĩa đến tương lai" đã là một minh chứng cho câu nói bất hủ của thi hào Musset: " Lời ca tuyệt vọng là lời ca tuyệt vời " ( Les plus désespérés sont les chants les plus beaux).
Nhưng thơ Nguyễn chí Thiện không phải chỉ có tuyệt vọng. " Từ muôn ngàn tàn lụi không tên. Sẽ bừng nở một trời hoa lạ quý". Trong tuyệt vọng đã nẩy mầm hy vọng và dầu thể xác rã rời, tâm hồn mòn mỏi, sức sống vẫn âm ỉ chờ ngày bùng dậy: " Sự sống mỏi mòn nhưng vẫn sống. Sống ngấm ngầm kiên nhẫn trong tôi". Nếu bạo lực đã không giết nổi hồn thơ và tài nghệ của Nguyễn chí Thiện thì lại càng không thể hủy diệt khí khái của ông. Hơn mươi năm trời " rong ruổi " ( !) từ trại tù nầy đến trại tù khác và nếm đủ mọi cực hình có sức làm thể xác hao mòn, tâm thần tê liệt. Ông vẫn giữ nguyên phong độ của một kẻ sĩ, dầu phải " uốn thân nuốt nhục " vẫn không hề chịu khuất phục . Trong hoàn cảnh của ông, làm thơ là một quả cảm phi thường, và ngược lại chính hồn thơ đã làm cho ông có nguồn sức mạnh vô song mà cả " bộ máy khổng lồ" của bạo lực cũng không tàn phá nổi. Đau thương đã không làm Nguyễn chí Thiện thối chí nản lòng mà đã tôi luyện cho ông thêm cường lực. Nguyễn chí Thiện xem đau thương như một thứ linh đan thần dược, uống vào là " lời ca hóa ra vạn tuế".
Theo dõi sự biến chuyển của thơ Nguyễn chí Thiện qua thời gian, người đọc sẽ nhận thấy có một sự tiến triển trong ý thức đấu tranh. Trong mười năm đầu, trọng tâm sáng tác của ông nhằm diễn tả nỗi đau khổ, chán chường, tuyệt vọng của bản thân hay cảnh khổ nhục đọa đày của dân tộc. Thỉnh thoảng lóe lên vài tia hy vọng nhưng đó là một thứ hy vọng tiêu cực, thụ động " mong chờ cuộc đời đổi mới trời ban". Bắt đầu từ năm 1969, lần lượt xuất hiện một số bài thơ mà nội dung là niềm tin sắt đá vào tương lai dân tộc song song với một ý thức đấu tranh mạnh mẽ kiêu hùng. Và cũng trong thời gian này, Nguyễn chí Thiện đã nói nhiều đến sức mạnh và hiệu năng của Thơ. Bài " Tôi tin chắc " ( 1969) bộc lộ niềm tin vào một bình minh sẽ đến với dân tộc sau " đêm tàn Cộng sản tối tăm ". Bài " Sẽ có một ngày " ( 1971) tiến xa hơn một bước, Nguyễn chí Thiện không bắt đầu bài thơ bằng câu " Tôi mong ước " hay là " Tôi tin " mà bằng một lời khẳng định chắc nịch: " Sẽ có một ngày ". Ngày đó, theo Nguyễn chí Thiện, mọi người sẽ " vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng " để khai sáng một kỷ nguyên mới đặt trên nền tảng tình người và truyền thống dân tộc. Trong các bài thơ được sáng tác vào thời gian kế tiếp ( từ 1972 đến 1976), thắng lợi cuối cùng của chính nghĩa đã trở thành một điều tất yếu, một chiều hướng chuyển biến của lịch sử mà không một bạo lực nào có thể ngăn chặn được. Điều đáng ngạc nhiên là trong khi Cộng sản ngày càng thắng thế tại miền Nam và hy vọng lật đổ bạo quyền ngày càng mong manh thì thơ Nguyễn chí Thiện lại tràn đầy tin tưởng vào mệnh Trời và sức đối kháng của dân tộc. Từ những " thế bí" , những bước đường cùng, sẽ xuất hiện một con đường giải thoát và những con người " chỉ có xương da", lúc có cơ hội đứng lên sẽ là " sức bật lật nhào tung hết ".
Trong các bài thơ sáng tác từ năm 1969 đến năm 1976 vừa được nói đến ở trên, bài Trường thi Đồng Lầy là một tuyệt tác. Tất cả những kỹ thuật sáng tác và những truyền thống thi ca dân tộc đều tụ hội về đây. Và bài thơ Đồng Lầy cũng tổng hợp tất cả những tinh túy của thơ Nguyễn chí Thiện về nội dung và hình thức , đánh dấu sự trưởng thành trong đau thương và sáng tạo. Nổi bật hơn hết là khúc khải hoàn ca trong phàn cuối. Nhà thơ tuyệt vọng cũng là nhà thơ của chiến thắng và, say sưa với viễn ảnh tương lai huy hoàng, đã tạo ra những vần thơ chói lọi hào quang, vẽ nên quang cảnh vừa oai linh vừa ghê rợn của một cuộc chinh phạt kinh thiên động địa chưa từng thấy.
Bao uất hận dâng trào lên lặng lẽ".
Và ông đã gởi vào thơ ông lời buộc tội gắt gao thâu tóm được bản chất tàn độc của chính sách giết người bằng cách bóp chết tiếng nói : " Nó dùng máu hãm những giòng nước mắt. Vắt những giọt mồ hôi. Bịt tiếng người câm bặt. Mong bốn phương lặng ngắt giữa cơ hàn. Để nó tự do vang dạo khúc đàn. Yêu ma..."Lời buộc tội trên đây, cũng như bao lời buộc tội khác trong thơ Nguyễn chí Thiện, nếu được đọc lên trước một tòa án công minh, hẳn không còn có vị thẩm phán nào có thể hoài nghi hay do dự trong việc phân định tội trạng và hình phạt.
Hủy diệt tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, là đặc điểm của tất cả mọi thứ độc tài kim cổ và xưa nay đã có vô số người tố cáo. Nhưng bút pháp thần tình của Nguyễn chí Thiện làm cho độc giả có cảm giác như sờ mó được cái độc hại , cái nguy hiểm của quái vật độc tài mà nanh vuốt là thủ đoạn " bỏ tù tiếng nói " . Thêm vào đó là biện pháp dùng đói khổ như một thứ xích xiềng để nô lệ hóa. Nguyễn chí Thiện đã đặt tên cho thủ đoạn này là " quốc sách đói mòn phân phối " . Mỉa mai thay mà cũng xác thực thay ! Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ mà Nguyễn chí Thiện điểm mặt được cả một chế độ, đã nâng sự bần cùng hóa nhân dân lên hàng quốc sách, để giết chết sự quật cường, để đè bẹp chống đối. Thê thảm hơn nữa là tình trạng " Hạt thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng. Họa phúc toàn quyền của Đảng". đã khiến con người không thể nào bảo toàn được nhân phẩm. Tình cảm, nhân cách, luân thường, đạo lý, tất cả đều bị xáo trộn, tiêu hao , tan nát. Những câu thơ được trích dẫn dưới đây vừa lột trần hậu quả khủng khiếp của " quốc sách đói mòn ", vừa cho độc giả một ý niệm về biệt tài vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn chí Thiện:
"Lảo đảo vì buồn đói
Xanh xao cả giống nòi
Rồng tiên thành rợ mọi
Đuôi cáo thực sự tòi !"
" Thú thật là dân đói chúng tôi
Chỉ mơ ước được no bằng con vật "
" Nơi đây không có gì hơn sắn
Người hóa thành ra lũ lợn rừng
Gan óc teo dần, tim chết cứng
Hồn con ma đói dắt đi chăn "
" Chế độ ta khoai sắn một đề tài
Cũng bất diệt như đề tài trai gái"
" Khoai sắn tranh giành cùm bắn chém băm"
" Tư cách thìa cơm đánh lộn nhào"
" Chiếc kéo Đảng dùng cắt tem phân phối
Gạo ngô từng lạng từng cân
Đã cắt nhỏ tình thâm cốt nhục
Manh áo niêu cơm cuộc đời rữa mục"
Những phân tích sơ lược trên đây cho ta thấy danh từ " địa ngục " không phải là một hình thức phóng đại, một kiểu nói văn chương, mà là một tên gọi xác đáng để chỉ cái thực tại mà chính Nguyễn chí Thiện cũng đã phải công nhận là " Chuyện có thực mà tưởng như thần thoại. Mà tưởng như ác mộng bi ai ". Nguyễn chí Thiện đã có công tạo những danh từ , những hình ảnh để phơi bày bằng nét bút sắc và đậm bộ mặt đa dạng của bạo lực. Ngôn ngữ của Nguyễn chí Thiện đã có tác dụng của những quang tuyến diệu kỳ, của những " chiếu yêu kính " khiến cho hồ ly phải hiện nguyên hình và những ngụy trang lừa bịp không còn hiệu nghiệm. Nguyễn chí Thiện vừa tố cáo tội ác trước công luận một cách hùng hồn, vừa làm phong phú kho tàng ngôn ngữ chúng ta. Chỉ cần làm một bảng thống kê những từ ngữ ông dùng để chỉ Bác và Đảng và cái thế giới mà Bác và Đảng thống trị cũng đủ cho ta phải ngạc nhiên và thích thú về cái kho tàng ngôn ngữ hầu như bất tận của ông. Với lối diễn tả thần diệu của ông khi nói về tội trạng của chế độ , khi vẽ lên cảnh tù đày, đói khổ, bệnh hoạn hoặc niềm khao khát vô vọng của những kẻ " không còn gan nghĩa đến tương lai" đã là một minh chứng cho câu nói bất hủ của thi hào Musset: " Lời ca tuyệt vọng là lời ca tuyệt vời " ( Les plus désespérés sont les chants les plus beaux).
Nhưng thơ Nguyễn chí Thiện không phải chỉ có tuyệt vọng. " Từ muôn ngàn tàn lụi không tên. Sẽ bừng nở một trời hoa lạ quý". Trong tuyệt vọng đã nẩy mầm hy vọng và dầu thể xác rã rời, tâm hồn mòn mỏi, sức sống vẫn âm ỉ chờ ngày bùng dậy: " Sự sống mỏi mòn nhưng vẫn sống. Sống ngấm ngầm kiên nhẫn trong tôi". Nếu bạo lực đã không giết nổi hồn thơ và tài nghệ của Nguyễn chí Thiện thì lại càng không thể hủy diệt khí khái của ông. Hơn mươi năm trời " rong ruổi " ( !) từ trại tù nầy đến trại tù khác và nếm đủ mọi cực hình có sức làm thể xác hao mòn, tâm thần tê liệt. Ông vẫn giữ nguyên phong độ của một kẻ sĩ, dầu phải " uốn thân nuốt nhục " vẫn không hề chịu khuất phục . Trong hoàn cảnh của ông, làm thơ là một quả cảm phi thường, và ngược lại chính hồn thơ đã làm cho ông có nguồn sức mạnh vô song mà cả " bộ máy khổng lồ" của bạo lực cũng không tàn phá nổi. Đau thương đã không làm Nguyễn chí Thiện thối chí nản lòng mà đã tôi luyện cho ông thêm cường lực. Nguyễn chí Thiện xem đau thương như một thứ linh đan thần dược, uống vào là " lời ca hóa ra vạn tuế".
Theo dõi sự biến chuyển của thơ Nguyễn chí Thiện qua thời gian, người đọc sẽ nhận thấy có một sự tiến triển trong ý thức đấu tranh. Trong mười năm đầu, trọng tâm sáng tác của ông nhằm diễn tả nỗi đau khổ, chán chường, tuyệt vọng của bản thân hay cảnh khổ nhục đọa đày của dân tộc. Thỉnh thoảng lóe lên vài tia hy vọng nhưng đó là một thứ hy vọng tiêu cực, thụ động " mong chờ cuộc đời đổi mới trời ban". Bắt đầu từ năm 1969, lần lượt xuất hiện một số bài thơ mà nội dung là niềm tin sắt đá vào tương lai dân tộc song song với một ý thức đấu tranh mạnh mẽ kiêu hùng. Và cũng trong thời gian này, Nguyễn chí Thiện đã nói nhiều đến sức mạnh và hiệu năng của Thơ. Bài " Tôi tin chắc " ( 1969) bộc lộ niềm tin vào một bình minh sẽ đến với dân tộc sau " đêm tàn Cộng sản tối tăm ". Bài " Sẽ có một ngày " ( 1971) tiến xa hơn một bước, Nguyễn chí Thiện không bắt đầu bài thơ bằng câu " Tôi mong ước " hay là " Tôi tin " mà bằng một lời khẳng định chắc nịch: " Sẽ có một ngày ". Ngày đó, theo Nguyễn chí Thiện, mọi người sẽ " vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng " để khai sáng một kỷ nguyên mới đặt trên nền tảng tình người và truyền thống dân tộc. Trong các bài thơ được sáng tác vào thời gian kế tiếp ( từ 1972 đến 1976), thắng lợi cuối cùng của chính nghĩa đã trở thành một điều tất yếu, một chiều hướng chuyển biến của lịch sử mà không một bạo lực nào có thể ngăn chặn được. Điều đáng ngạc nhiên là trong khi Cộng sản ngày càng thắng thế tại miền Nam và hy vọng lật đổ bạo quyền ngày càng mong manh thì thơ Nguyễn chí Thiện lại tràn đầy tin tưởng vào mệnh Trời và sức đối kháng của dân tộc. Từ những " thế bí" , những bước đường cùng, sẽ xuất hiện một con đường giải thoát và những con người " chỉ có xương da", lúc có cơ hội đứng lên sẽ là " sức bật lật nhào tung hết ".
Trong các bài thơ sáng tác từ năm 1969 đến năm 1976 vừa được nói đến ở trên, bài Trường thi Đồng Lầy là một tuyệt tác. Tất cả những kỹ thuật sáng tác và những truyền thống thi ca dân tộc đều tụ hội về đây. Và bài thơ Đồng Lầy cũng tổng hợp tất cả những tinh túy của thơ Nguyễn chí Thiện về nội dung và hình thức , đánh dấu sự trưởng thành trong đau thương và sáng tạo. Nổi bật hơn hết là khúc khải hoàn ca trong phàn cuối. Nhà thơ tuyệt vọng cũng là nhà thơ của chiến thắng và, say sưa với viễn ảnh tương lai huy hoàng, đã tạo ra những vần thơ chói lọi hào quang, vẽ nên quang cảnh vừa oai linh vừa ghê rợn của một cuộc chinh phạt kinh thiên động địa chưa từng thấy.
Theo
Nguyễn chí Thiện, ngày chiến thắng sẽ đến, khi tất cả nạn nhân của đồng lầy,
khi tất cả mọi người trong và ngoài nước đã nhận thức được như ông :
" Cộng sản đánh gục
Đời mới hết nhục "
và
" Quân Cộng sản phải khử trừ chúng mãi
Cứu lấy cuộc đời hiện tại tương lai".
Thấm thoát đã gần mười năm, kể từ ngày thơ Nguyễn chí Thiện lọt được ra ngoài . Mười năm kéo dài cuộc đời tù đày vô vọng. Hẵn Nguyễn chí Thiện vẫn còn tiếp tục tạo những " vần thơ câm lặng " . Không biết đến bao giờ những vần thơ ấy mới đến với chúng ta ? Hay sẽ chẳng bao giờ? Hay chúng sẽ mãi mãi bị chôn vùi để nền văn học nước nhà mất đi những vần thơ tuyệt diệu và Nguyễn chí Thiện phải tức tưởi nghẹn ngào thương tiếc thơ ông để rồi phải vĩnh viễn " khóc âm thầm trong đất"? ".
Những đoạn phê bình trích dẫn ở trên của Luật sư Trần thanh Hiệp và Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi là những lời nhận xét có giá trị về tập thơ cũng như tác giả Nguyễn chí Thiện. Khi hai ông viết những hàng trên thì tác giả tập thơ, đúng như người ta dự đoán, bị bắt và đưa vào tù ngay sau khi tập thơ được quăng vào Tòa đại sứ Anh ở Hà Nội. Có hai chuyện quấn quít suốt đời với nhà thơ độc đáo này là thơ và tù. Ông làm thơ từ tù và vì làm thơ mà ông chôn vùi hầu hết cả cuộc đời trong tù. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu thơ , nhưng có lẽ cũng khó kiếm được một người làm thơ lại khốn khó và bị tù đày vì thơ như Nguyễn chí Thiện.Tù đày giam hãm tấm thân gầy gò của ông nhưng cũng chính từ hoàn cảnh tù đày này mà ông đã có những vần thơ bất hủ để lại cho đời.
Không những những người Việt Nam trên khắp thế giới yêu mến thơ Nguyễn chí Thiện. Tiến sĩ Erich Wolfgang Skwara, vốn là giáo sư về môn văn chương Đức tại Đại học San Diego, đã viết một bài nhan đề "Khổ nhục và hy vọng" làm bài tựa cho bản dịch tiếng Đức tập thơ "Hoa địa ngục" của Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi. Có đọc bài này mới thấy thơ Nguyễn chí Thiện đã chinh phục trọn vẹn tim và óc độc giả người nước ngoài:
" Hải đảo Madeira là một cảnh thiên đường đầy hoa và đắm chìm trong tĩnh mịch. Giá làm ngơ được để khỏi nhìn thấy du khách thì thật là tuyệt hảo- mặc dầu như vậy là cũng không nhìn thấy chính mình. Cảnh sắc cực kỳ đẹp đẽ và thanh vắng khiến người ta có cảm tưởng nơi đây là hiện thân của Thi ca. Có lẽ vì thế mà Văn Bút Quốc Tế đã chọn nơi này để tổ chức Đại Hội năm 1990. Ban đầu tôi lưỡng lự, không muốn tham dự nhưng bây giờ tôi cảm thấy chuyến đi này là một việc cần thiết: Tôi đã đến Madeira để " gặp" nhà thơ Nguyễn chí Thiện, một đại thi hào Việt Nam.
Nói là gặp, nhưng thật ra chỉ là một cuộc gặp gỡ gián tiếp, vì không thể gặp nah thơ lớn này , dầu ở Madeira hay bất cứ nơi nào khác. Vì ông đã bị bắt lại cách đây khoảng mười năm và từ ngày đó ông mất hút trong các nhà tù miền Bắc Việt Nam.. Không ai biết rõ và biết chắc hiện ông đang ở đâu, cũng không ai biết rõ ông còn tiếp tục sáng tác nữa hay không và sáng tác những gì - mặc dầu riêng tôi, tôi tin chắc rằng ông vẫn còn sáng tác.
Nguyễn chí Thiện đã được Trung Tâm Văn Bút của nhiều quốc gia chọn làm hội viên danh dự. Nhiều tổ chức đã can thiệp, đã gửi kiến nghị yêu cầu trả tự do cho ông. Và ông cũng đã được tặng khiếm diện một số giải thưởng văn chương. Dầu vậy tại Đại Hội Văn Bút năm nay cũng như những năm trước, tôi không hề cảm thấy thiếu vắng ông. Là vì trong một cơ cấu hành chánh được điều hành một cách máy móc, dầu đó là một nền hành chánh nhằm phục vụ văn chương, sự thiếu vắng của con người không được ghi nhận.
Đã từ lâu tôi cứ băn khoăn mãi với câu hỏi: Chúng ta , những văn sĩ được hưởng đời sống dễ dãi tại thế giới Tây phương ( dễ dãi, mặc dầu lắm khi chúng ta không tìm ra độc giả và lợi nhuận thu về chẳng mấy tương xứng), chúng ta có quyền lên tiếng nói của mình không, và nếu có thì phải sử dụng quyền đó như thế nào. Tôi đã viết và đang tiếp tục viết, tôi đã và đang xuất bản tác phẩm của mình, nhưng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ tôi là một kẻ lường gạt. Bởi vì tư tưởng và cảm xúc của tôi hoàn toàn thuộc về đời tư và niềm đau khổ của tôi chỉ là một xa xỉ phẩm. Vâng, đau khổ riêng tư là một xa xỉ phẩm.
Và tôi đã gặp Nguyễn chí Thiện, nhà thơ lớn của Việt Nam. Gặp, có nghĩa là tôi đã được biết ông qua một trong những sứ giả của ông, Bùi hạnh Nghi, người đã dịch thơ ông ra Đức ngữ. Còn Nguyễn chí Thiện thì không ai trực tiếp gặp được vì cho đến nay ông vẫn còn bị cầm tù ( tổng cộng đời tù của ông là bao nhiêu năm, ba thập niên hay nhiều hơn nữa?). Bùi hạnh Nghi đã đến Madeira và đã tặng tôi tập thơ " Hoa địa ngục", sắp được tái bản.
Sau khi đón nhận tập thơ, tôi đã ở mãi trong phòng đọc một hơi từ đầu đến cuối. Tôi đã đọc một hơi vì những bài thơ đó có sức hút của nam châm và cũng vì bản dịch thật đặc sắc. Thực ra chỉ cẩn đọc ít giòng cũng đủ thấy rằng tôi đã hạnh ngộ với một nhà thơ lớn mà tôi sẽ vô cùng ngưỡng mộ. Và càng đọc tôi càng nhận rõ rằng tôi đã được biết thêm một nhà thơ mà từ nay tôi sẽ đặt ngang hàng với các thần tượng thi ca của tôi từ trước đến nay như Rimbaud và Trakl- tôi kể vài thí dụ mà không theo một thứ tự ưu tiên nào- như Benn và Hoelderlin. Nghĩa là tôi đặt ông ngang hàng với những nhà thơ tuyệt vời nhất của chúng ta, của tôi, của mọi người. Kể từ đêm đọc thơ Nguyễn chí Thiện tại Madeira, tôi đã hiểu vì sao cuộc hành trình đến Madeira của tôi là cần thiết: Tôi phải đến đó để đón nhà thơ Nguyễn chí Thiện.
Và tôi tự nhủ: Thấy chưa ! Một nhà thơ Việt Nam! Thế mà lâu nay mình cứ dương dương tự đắc về cái bản chất Âu châu ưu việt của mình! Và tôi lại nhận ra một điều này nữa: Lâu nay, mỗi lần nói đến Việt Nam là chúng ta cứ liên tưởng ngay đến Hoa Kỳ hoặc giả liên tưởng đến Pháp. Đáng sợ thay! Chúng ta đã bóp méo, đã hãm hiếp sự thật một cách phũ phàng! Từ nay, hai chữ Việt Nam sẽ không còn khiến tôi liên tưởng đến Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào khác mà chỉ còn nhắc tôi nhớ đến một nền văn chương sáng lạn và nhớ đến nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Không gì tốt đẹp bằng được dịp tìm hiểu một dân tộc qua một thi hào của dân tộc này. Chuyến đi Madreira của tôi đã trở thành một chuyến du lịch Việt Nam.
Tôi hâm mộ thơ Nguyễn chí Thiện không phải chỉ vì những hình ảnh đầy chất thơ - mặc dù toàn bộ thơ ông đầy dẫy những hình ảnh ấy, mà nhất là vì những nhận định của ông, mà ông đã nói lên một cách bình dị, hầu như khô khan. Ông đã nói lên những điều mới lạ, chưa nghe , chưa biết, nhưng đồng thời cũng lại là những điều đã từ lâu quen thuộc và đó chính là tính chất cổ điển của thơ Nguyễn chí Thiện...Trong bài đề tựa tập thơ lần xuất bản đầu tiên bằng Đức ngữ, có đoạn mô tả sự việc bị cưỡng ép phải tươi cười hân hoan như một cực hình tra tấn. Điều đó chúng ta trong thế giới Tây phương có thể hiểu được, vì lắm khi chính chúng ta cũng bị ép buộc hay tự bắt mình phải tươi cười, phải hân hoan. Tiếng nói của đau thương trong thơ Nguyễn chí Thiện dễ khơi niềm thông cảm trong lòng chúng ta mặc dầu ta được may mắn sống cuộc đời sung sướng. Chỉ có tiếng nói của hy vọng trong thơ Nguyễn chí Thiện- và ông đã không ngớt nói về hy vọng- khiến ta ngỡ ngàng như đứng trước một gian nhà đóng kín. Vì chúng ta thiếu niềm tin. Vì chúng ta không có niềm hy vọng. Chúng ta hân hoan tắm gội trong niềm tuyệt vọng sơn phết đủ mọi sắc màu. Chỉ những kẻ đã nếm mùi thương đau mới biết thế nào là hy vọng.
Từ ngày " gặp" Nguyễn chí Thiện, tôi đã nhiều lần giở tập thơ ra đọc lại. Những dòng thơ đầy tình thương đã mang lại cho tôi nhiều thú vị. Tình thương trong thơ Nguyễn chí Thiện đã chọc thủng tường thành tù ngục và đã vượt mọi chướng ngại của đồng lầy để đến với chúng ta ở Đức, ở Cali, Maderia hay bất cứ nơi nào khác. Nghe đâu có một số người phê phán thơ Nguyễn chí Thiện đầy ứ hận thù. Đối với những viên cai ngục, những tên thẩm phán của chế độ hay những kẻ hành hạ ông thì sụ thù hận cũng chỉ là phản ứng tự nhiên và chính đáng thôi...Nhưng tôi không tìm thấy hận thù trong thơ Nguyễn chí Thiện. Tôi chỉ thấy sự hiện thân rất đậm nét của Khổ Nhục cũng như niềm xác tín rằng dầu khổ nhục, cuộc đời và tương lai nhân loại chưa phải vì thế mà kết thúc... Nguyễn chí Thiện tin vào nhân loại, tin vào những gì cao quí của con người.
" Cộng sản đánh gục
Đời mới hết nhục "
và
" Quân Cộng sản phải khử trừ chúng mãi
Cứu lấy cuộc đời hiện tại tương lai".
Thấm thoát đã gần mười năm, kể từ ngày thơ Nguyễn chí Thiện lọt được ra ngoài . Mười năm kéo dài cuộc đời tù đày vô vọng. Hẵn Nguyễn chí Thiện vẫn còn tiếp tục tạo những " vần thơ câm lặng " . Không biết đến bao giờ những vần thơ ấy mới đến với chúng ta ? Hay sẽ chẳng bao giờ? Hay chúng sẽ mãi mãi bị chôn vùi để nền văn học nước nhà mất đi những vần thơ tuyệt diệu và Nguyễn chí Thiện phải tức tưởi nghẹn ngào thương tiếc thơ ông để rồi phải vĩnh viễn " khóc âm thầm trong đất"? ".
Những đoạn phê bình trích dẫn ở trên của Luật sư Trần thanh Hiệp và Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi là những lời nhận xét có giá trị về tập thơ cũng như tác giả Nguyễn chí Thiện. Khi hai ông viết những hàng trên thì tác giả tập thơ, đúng như người ta dự đoán, bị bắt và đưa vào tù ngay sau khi tập thơ được quăng vào Tòa đại sứ Anh ở Hà Nội. Có hai chuyện quấn quít suốt đời với nhà thơ độc đáo này là thơ và tù. Ông làm thơ từ tù và vì làm thơ mà ông chôn vùi hầu hết cả cuộc đời trong tù. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu thơ , nhưng có lẽ cũng khó kiếm được một người làm thơ lại khốn khó và bị tù đày vì thơ như Nguyễn chí Thiện.Tù đày giam hãm tấm thân gầy gò của ông nhưng cũng chính từ hoàn cảnh tù đày này mà ông đã có những vần thơ bất hủ để lại cho đời.
Không những những người Việt Nam trên khắp thế giới yêu mến thơ Nguyễn chí Thiện. Tiến sĩ Erich Wolfgang Skwara, vốn là giáo sư về môn văn chương Đức tại Đại học San Diego, đã viết một bài nhan đề "Khổ nhục và hy vọng" làm bài tựa cho bản dịch tiếng Đức tập thơ "Hoa địa ngục" của Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi. Có đọc bài này mới thấy thơ Nguyễn chí Thiện đã chinh phục trọn vẹn tim và óc độc giả người nước ngoài:
" Hải đảo Madeira là một cảnh thiên đường đầy hoa và đắm chìm trong tĩnh mịch. Giá làm ngơ được để khỏi nhìn thấy du khách thì thật là tuyệt hảo- mặc dầu như vậy là cũng không nhìn thấy chính mình. Cảnh sắc cực kỳ đẹp đẽ và thanh vắng khiến người ta có cảm tưởng nơi đây là hiện thân của Thi ca. Có lẽ vì thế mà Văn Bút Quốc Tế đã chọn nơi này để tổ chức Đại Hội năm 1990. Ban đầu tôi lưỡng lự, không muốn tham dự nhưng bây giờ tôi cảm thấy chuyến đi này là một việc cần thiết: Tôi đã đến Madeira để " gặp" nhà thơ Nguyễn chí Thiện, một đại thi hào Việt Nam.
Nói là gặp, nhưng thật ra chỉ là một cuộc gặp gỡ gián tiếp, vì không thể gặp nah thơ lớn này , dầu ở Madeira hay bất cứ nơi nào khác. Vì ông đã bị bắt lại cách đây khoảng mười năm và từ ngày đó ông mất hút trong các nhà tù miền Bắc Việt Nam.. Không ai biết rõ và biết chắc hiện ông đang ở đâu, cũng không ai biết rõ ông còn tiếp tục sáng tác nữa hay không và sáng tác những gì - mặc dầu riêng tôi, tôi tin chắc rằng ông vẫn còn sáng tác.
Nguyễn chí Thiện đã được Trung Tâm Văn Bút của nhiều quốc gia chọn làm hội viên danh dự. Nhiều tổ chức đã can thiệp, đã gửi kiến nghị yêu cầu trả tự do cho ông. Và ông cũng đã được tặng khiếm diện một số giải thưởng văn chương. Dầu vậy tại Đại Hội Văn Bút năm nay cũng như những năm trước, tôi không hề cảm thấy thiếu vắng ông. Là vì trong một cơ cấu hành chánh được điều hành một cách máy móc, dầu đó là một nền hành chánh nhằm phục vụ văn chương, sự thiếu vắng của con người không được ghi nhận.
Đã từ lâu tôi cứ băn khoăn mãi với câu hỏi: Chúng ta , những văn sĩ được hưởng đời sống dễ dãi tại thế giới Tây phương ( dễ dãi, mặc dầu lắm khi chúng ta không tìm ra độc giả và lợi nhuận thu về chẳng mấy tương xứng), chúng ta có quyền lên tiếng nói của mình không, và nếu có thì phải sử dụng quyền đó như thế nào. Tôi đã viết và đang tiếp tục viết, tôi đã và đang xuất bản tác phẩm của mình, nhưng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ tôi là một kẻ lường gạt. Bởi vì tư tưởng và cảm xúc của tôi hoàn toàn thuộc về đời tư và niềm đau khổ của tôi chỉ là một xa xỉ phẩm. Vâng, đau khổ riêng tư là một xa xỉ phẩm.
Và tôi đã gặp Nguyễn chí Thiện, nhà thơ lớn của Việt Nam. Gặp, có nghĩa là tôi đã được biết ông qua một trong những sứ giả của ông, Bùi hạnh Nghi, người đã dịch thơ ông ra Đức ngữ. Còn Nguyễn chí Thiện thì không ai trực tiếp gặp được vì cho đến nay ông vẫn còn bị cầm tù ( tổng cộng đời tù của ông là bao nhiêu năm, ba thập niên hay nhiều hơn nữa?). Bùi hạnh Nghi đã đến Madeira và đã tặng tôi tập thơ " Hoa địa ngục", sắp được tái bản.
Sau khi đón nhận tập thơ, tôi đã ở mãi trong phòng đọc một hơi từ đầu đến cuối. Tôi đã đọc một hơi vì những bài thơ đó có sức hút của nam châm và cũng vì bản dịch thật đặc sắc. Thực ra chỉ cẩn đọc ít giòng cũng đủ thấy rằng tôi đã hạnh ngộ với một nhà thơ lớn mà tôi sẽ vô cùng ngưỡng mộ. Và càng đọc tôi càng nhận rõ rằng tôi đã được biết thêm một nhà thơ mà từ nay tôi sẽ đặt ngang hàng với các thần tượng thi ca của tôi từ trước đến nay như Rimbaud và Trakl- tôi kể vài thí dụ mà không theo một thứ tự ưu tiên nào- như Benn và Hoelderlin. Nghĩa là tôi đặt ông ngang hàng với những nhà thơ tuyệt vời nhất của chúng ta, của tôi, của mọi người. Kể từ đêm đọc thơ Nguyễn chí Thiện tại Madeira, tôi đã hiểu vì sao cuộc hành trình đến Madeira của tôi là cần thiết: Tôi phải đến đó để đón nhà thơ Nguyễn chí Thiện.
Và tôi tự nhủ: Thấy chưa ! Một nhà thơ Việt Nam! Thế mà lâu nay mình cứ dương dương tự đắc về cái bản chất Âu châu ưu việt của mình! Và tôi lại nhận ra một điều này nữa: Lâu nay, mỗi lần nói đến Việt Nam là chúng ta cứ liên tưởng ngay đến Hoa Kỳ hoặc giả liên tưởng đến Pháp. Đáng sợ thay! Chúng ta đã bóp méo, đã hãm hiếp sự thật một cách phũ phàng! Từ nay, hai chữ Việt Nam sẽ không còn khiến tôi liên tưởng đến Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào khác mà chỉ còn nhắc tôi nhớ đến một nền văn chương sáng lạn và nhớ đến nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Không gì tốt đẹp bằng được dịp tìm hiểu một dân tộc qua một thi hào của dân tộc này. Chuyến đi Madreira của tôi đã trở thành một chuyến du lịch Việt Nam.
Tôi hâm mộ thơ Nguyễn chí Thiện không phải chỉ vì những hình ảnh đầy chất thơ - mặc dù toàn bộ thơ ông đầy dẫy những hình ảnh ấy, mà nhất là vì những nhận định của ông, mà ông đã nói lên một cách bình dị, hầu như khô khan. Ông đã nói lên những điều mới lạ, chưa nghe , chưa biết, nhưng đồng thời cũng lại là những điều đã từ lâu quen thuộc và đó chính là tính chất cổ điển của thơ Nguyễn chí Thiện...Trong bài đề tựa tập thơ lần xuất bản đầu tiên bằng Đức ngữ, có đoạn mô tả sự việc bị cưỡng ép phải tươi cười hân hoan như một cực hình tra tấn. Điều đó chúng ta trong thế giới Tây phương có thể hiểu được, vì lắm khi chính chúng ta cũng bị ép buộc hay tự bắt mình phải tươi cười, phải hân hoan. Tiếng nói của đau thương trong thơ Nguyễn chí Thiện dễ khơi niềm thông cảm trong lòng chúng ta mặc dầu ta được may mắn sống cuộc đời sung sướng. Chỉ có tiếng nói của hy vọng trong thơ Nguyễn chí Thiện- và ông đã không ngớt nói về hy vọng- khiến ta ngỡ ngàng như đứng trước một gian nhà đóng kín. Vì chúng ta thiếu niềm tin. Vì chúng ta không có niềm hy vọng. Chúng ta hân hoan tắm gội trong niềm tuyệt vọng sơn phết đủ mọi sắc màu. Chỉ những kẻ đã nếm mùi thương đau mới biết thế nào là hy vọng.
Từ ngày " gặp" Nguyễn chí Thiện, tôi đã nhiều lần giở tập thơ ra đọc lại. Những dòng thơ đầy tình thương đã mang lại cho tôi nhiều thú vị. Tình thương trong thơ Nguyễn chí Thiện đã chọc thủng tường thành tù ngục và đã vượt mọi chướng ngại của đồng lầy để đến với chúng ta ở Đức, ở Cali, Maderia hay bất cứ nơi nào khác. Nghe đâu có một số người phê phán thơ Nguyễn chí Thiện đầy ứ hận thù. Đối với những viên cai ngục, những tên thẩm phán của chế độ hay những kẻ hành hạ ông thì sụ thù hận cũng chỉ là phản ứng tự nhiên và chính đáng thôi...Nhưng tôi không tìm thấy hận thù trong thơ Nguyễn chí Thiện. Tôi chỉ thấy sự hiện thân rất đậm nét của Khổ Nhục cũng như niềm xác tín rằng dầu khổ nhục, cuộc đời và tương lai nhân loại chưa phải vì thế mà kết thúc... Nguyễn chí Thiện tin vào nhân loại, tin vào những gì cao quí của con người.
Sau khi đọc Nguyễn chí Thiện, tất nhiên người ta sẽ lên án chủ nghĩa Cộng sản và chính sách ngu xuẩn bạo ngược của chúng một cách gắt gao hơn. Còn những kẻ thiên tả cấp tiến theo kiểu các chính khách phòng trà Tây phương cũng như những kẻ còn khư khư bám chặt những điều không tưởng Mác xít- mặc dầu lúc này mọi người đều thấy những không tưởng ấy đã hoàn toàn sụp đổ- những kẻ ấy chỉ đáng cho ta xem như một lũ hề nhưng đồng thời cũng phải đề phòng chúng như một nguy cơ. Chúng là biểu tượng cho những sự " trật đường rầy" của lịch sử và trí tuệ. Nhưng những sự lầm lạc ấy làm sao thắng được một đại thi hào, bất quá chúng chỉ có thể bắt nhà thơ phải chịu giam cầm đầy đọa mà thôi. Không biết bây giờ nhà thơ của chúng ta còn sáng tác hay không. Tôi hy vọng rất nhiều- không, tôi biết chắc - ông vẫn còn sáng tác. Tôi biết chắc như vậy vì tôi đã đọc thơ ông và mỗi bài thơ của ông sẽ được viết tiếp trong lòng độc giả.
Còn chúng ta, giờ đây ( sau khi đọc thơ Nguyễn chí Thiện), mỗi người trong chúng ta sẽ phải sử dụng ngòi bút như thế nào? Và nhằm mục đích gì? Đó là câu hỏi của ngày hôm nay mà cũng là câu hỏi tự ngàn xưa..
Nice ngày 31 tháng 5 năm 1990."
Để trả lời cho câu hỏi của Tiến sĩ Skwara là nhà thơ có còn sáng tác nữa hay không sau cuốn thơ " Hoa địa ngục" , Nguyễn chí Thiện tiếp tục cho ra đời " Hoa địa ngục tập 2" sau khi định cư ở Mỹ vào tháng 11 năm 1995.
Học giả Patrick J. Honey của phân khoa Á và Phi châu của trường đại học London, người đã có dịp cầm tận tay bản thảo tập thơ "Hoa địa ngục" do bộ ngoại giao Anh trao lại, đã nhận xét về lời thơ Nguyễn chí Thiện như sau, " Dù có một vài bài có giọng điệu chống cộng trần trụi, những bài khác thật tuyệt vời, biểu lộ một tình cảm nồng nàn nóng bỏng chưa từng thấy trong thi ca Việt Nam."
Kể từ sau ngày định cư ở Mỹ, ông đã trả lời rất nhiều cơ quan báo chí và truyền thông hải ngoại về tình hình chính trị trong và ngoài nước cũng như vạch ra những đường lối đấu tranh thực tiễn nhằm đưa đến chuyện lật đổ chế độ Cộng sản sớm thành sự thật. Xuyên qua những bài phỏng vấn, người ta càng thấy rõ rằng Nguyễn chí Thiện không những là một thiên tài thi ca mà còn là một người có một vốn liếng chính trị chín chắn , vững vàng, thấu đáo và tường tận.
Khi được hỏi về những nhận xét của ông về những tiếng nói trong nước đòi thay đổi sự cai trị của chế độ Cộng sản, ông cho biết là trong nước , hàng nửa thế kỷ nay, đất nước khi nằm dưới chế độ Cộng sản đều không có tự do. Guồng máy thông tin thì đều nằm trong tay Đảng. Ròng rã trong bao nhiêu năm trời không có một tiếng nói nào có thể vang lên được. Ngày nay trước sự sụp đổ của phe Xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã lung lay lắm rồi. Có nhiều tiếng nói cất lên, đó là dấu hiệu rất đáng mừng. Khởi đầu bao giờ cũng là lời nói, nếu không có lời nói thì những tư tưởng sẽ nằm chết trong đầu, chính lời nói sẽ làm cho tư tưởng chuyển hóa thành hành động.
Những tiếng nói trong nước bây giờ rất là đáng trân trọng dù tiếng nói đó là của ai, nhất là tiếng nói của những người Cộng sản lại càng đáng quý. Chúng ta phải thấy một điều là những người như ông Trần Độ, hay một số người khác khi nói lên tiếng nói, họ đánh thẳng vào lực lượng các đảng viên, quân đội, công an, tiếng nói đó có tác dụng công phá dữ dội. Chúng ta bắt buộc phải khuyến khích chứ không thể nào mà yêu cầu họ nói giống như chúng ta ở ngoài này nói. Vì đấu tranh ngay trong lòng Đảng, giữa thủ đô Hà Nội khác với việc chúng ta đấu tranh nơi xứ sở tự do. Sự đấu tranh của họ cũng gần như là người đánh cờ, dù muốn chiếu tướng ngay cũng phải đi rất nhiều nước, có khi phải lùi một vài bước, có khi phải nhường một vài bước, có khi phải thí một vài quân; việc khó khăn là như vậy, chúng ta không thể đòi hỏi một cách thẳng băng cứng ngắt được!
Những tiếng nói đó vô cùng quan trọng, dù là tiếng nói của những người Cộng sản, nhất là những người Cộng sản cao cấp, có uy tín trong Đảng, có nhiều bạn bè, có nhiều đàn anh, đàn em chẳng hạn, chúng ta càng phải ủng hộ những người ấy. Huống chi chúng ta ngoài này không có gì cả, vũ khí không có, chúng ta càng phải lợi dụng cái mà Nguyễn Trãi gọi là " tâm công" - là đánh vào lòng người. Bất cứ một người Cộng sản nào lên tiếng đòi dân chủ hóa đất nước , chống lại chế độ độc đảng, chúng ta đều phải ủng hộ, khuyến khích họ để họ có thêm tinh thần, nhiệt huyết để làm việc; kể cả ông Trần Độ cũng như những người khác ở trong nước cũng rất trông chờ vào sự ủng hộ và hỗ trợ của chúng ta bên này. Vì thế tiếng nói trong nước vô cùng quan trọng, nó sẽ là dấu hiệu báo trước một sự thay đổi lớn lao cho đất nước. Trong lúc có nhiều người hải ngoại nghi ngờ Trần Độ là loại " phản kháng giả hiệu" thì Nguyễn chí Thiện vẫn nhận định Trần Độ là người đấu tranh thực sự. Sự kiện sau này Trần Độ bị khai trừ ra khỏi Đảng đã cho thấy Nguyễn chí Thiện đã nhận xét đúng. Trần Độ là cái gai mà Đảng mong nhổ đi vì nó đặt Đảng vào trong một tư thế cấn cái và bất lợi vô cùng khi một Đảng viên có gần 50 tuổi Đảng lên tiếng phê phán những sai lầm của chế độ.
Về lực lượng đấu tranh của lực lượng đấu tranh của người Việt hải ngoại, Nguyễn chí Thiện có ý kiến nhắn nhủ là hoạt động của người Việt hải ngoại nên chú trọng và hướng về trong nước nhiều hơn nữa. Đó mới là điều chủ chốt. Cộng sản bây giờ có thể cử nhiều cán bộ ra hải ngoại để quấy rối, quậy phá, gây ra những sự chửi bới, tranh cãi ồn ào về những chuyện không đâu trong Cộng đồng hải ngoại... Cộng sản chỉ có thể làm đến thế là cùng, không thể làm hơn được nữa. Và điều này cũng là do một số người có ý thức kém nên đã bị lợi dụng mà không biết.
Về cơ bản, trước kia Cộng sản đã thắng về tuyên truyền ( việc vận động quần chúng), vì lúc bấy giờ chúng chưa lòi mặt ra. Thế nhưng một người gian dối, lúc đầu chưa bị lộ thì sự gian dối còn có hiệu quả, nhưng bị đã bị lột mặt nạ, thì càng nói bao nhiêu, càng uốn lưỡi bao nhiêu, thì càng bị khinh bỉ bấy nhiêu. Nên khi Cộng sản có tung ra hải ngoại để làm những việc " kiều vận " thì cũng không có kết quả bao nhiêu và cũng không ăn thua gì vì tuyệt đại đa số những người Việt ở hải ngoại đều là những nạn nhân và đã chán ngán với Cộng sản đến cùng cực. Trong nước thì tình hình còn tệ hơn nữa, người dân bây giờ nếu ngồi ở quán cà phê, quán phở.. mà nếu còn ca ngợi công lao của Đảng , của Bác thì người ta coi những người phát biểu này như những người mắc bệnh tâm thần, tâm trí không còn bình thường nữa.
Trong nước hiện giờ tiếng nói chống đối thực sự không được phổ biến, phần nhiều chỉ là những bản photocopy truyền tay nhau một cách âm thầm. Chúng ta ở ngoài này có phương tiện, chúng ta có thể dùng Internet để đưa tài liệu vào trong nước, hay bằng những phương tiện thô sơ hơn như một người mỗi một tháng gửi độ bốn, năm lá thư có những tài liệu phản kháng trong nước hay những bài báo hay và có giá trị tại hải ngoại về quê hương; trong thư bàn về tình hình dất nước, nói rõ những hủ lậu , tham ô, tệ hại trì trệ của xã hội. Chúng ta truyền về những tài liệu này về trong nước càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Thời đại của chúng ta hiện nay là thời đại của chiến tranh truyền thông. Hiện chúng ta không có một khẩu súng nào trong tay vì thế truyền thông là vũ khí vô cùng quan trọng.
Người dân hay các đảng viên, quân đội, công an...những khi họ còn mù mờ chưa biết, chưa nhìn ra sự thật, nếu chúng ta làm sáng tỏ vấn đề để họ thấy rằng Đảng Cộng sản bây giờ là một trở lực, một nhục nhã cho đất nước Việt Nam và cần phải xóa bỏ đi và thay thế bằng chế độ dân chủ văn minh để có thể không thua kém các nước láng giềng - chứ chưa nói đến chuyện so sánh với thế giới ! Tiếng nói quan trọng là làm thức tỉnh, đi sâu vào quần chúng, nông dân, đảng viên, quân đội, công an và những người Cộng sản, và sẽ có lợi cho những biến động sau này vì tất nhiên những biến động đó sẽ xảy ra.
Về chuyện Cộng sản có tiếp tục cho người đánh phá cá nhân ông tại hải ngoại hay không , Nguyễn chí Thiện cho rằng nếu có chuyện đó xảy ra thì đó cũng là chuyện bình thường. Ông không cho ông là nạn nhân vì Cộng sản bao giờ cũng đánh giá việc này như một tác động tâm lý chiến rất cao. Thí dụ như cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là Gorbachev giờ này đã về hưu, có lần ông đã trả lời tờ báo chính trị rất có uy tín của Pháp là tờ Politic International ( 1 năm chỉ xuất bản 4 kỳ) trong một cuộc phỏng vấn mới đây. Ông cho biết trong thời gian ông còn cầm quyền, ông đã tung ra rất nhiều tiền để mua chuộc, xây dựng những tờ báo ở ngoại quốc để ca ngợi đường lối của Liên Xô cũ. Điều này cho thấy mặt trận truyền thông vô cùng quan trọng. Huống chi hiện nay tại Việt Nam, chính quyền Hà Nội không thiếu tiền, làm gì mà chúng không dùng tiền, cử người sang nước ngoài, nhất là bên Mỹ- vùng có nhiều người Việt cư ngụ như ở California - để làm việc lũng đoạn. Cho nên điều này rất bình thường.
Cộng sản từ tay trắng mà thành cũng là do tuyên truyền. Nhưng sự tuyên truyền của nó đã mất đi hiệu lực, ngày tàn của nó giờ đã gần đến. Thí dụ như ở hải ngoại, dù nó có quấy phá nhưng không người nào dám ra mặt cả. Phần nhiều chỉ đóng vai chống Cộng rất là ghê gớm, chửi bới lung tung tất cả mọi người, cho ai cũng đều là Cộng sản, rồi trá hình kêu gọi lòng nhân đạo, sự giao lưu, kêu gọi quên đi dĩ vãng để mở ra một trang mới hướng về đất nước, dân tộc.. Điều này những người hiểu Cộng sản, không cứ gì Nguyễn chí Thiện, như nhà thơ Bùi minh Quốc cũng phải làm một bài thơ nói, "Thôi những người đã chết thôi không sống lại được nữa, đừng giở lại những chuyện cũ nữa, hãy quên đi, " Đao phủ giọng thật mềm: Chuyện đã qua rồi, thôi cho qua mãi mãi. Xới lại làm chi những điều oan trái. Người chết cũng chết rồi, hãy để họ nằm yên. Mắt lim dim, đao phủ ngồi thiền ( 1995) " . Nhưng chúng ta cũng không thể vơ đũa cả nắm, nhiều người do ghét Cộng sản quá cũng bị mắc vào những điều đó. Vì thế sự tuyên truyền của Cộng sản chỉ tác dụng phần nào, chứ còn đối với những người am hiểu nó thì nó không hề tác động đến được.
Khi được hỏi là ông có nghĩ ra một phương thức đấu tranh cho tiến trình đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam thì Nguyễn chí Thiện cho biết là tất cả chúng ta hiện ở một thế rất kẹt là ở hải ngoại xa xôi quá đối với trong nước. Cũng không phải ai cũng có thể về nước được. Chẳng hạn như cá nhân ông Thiện muốn về nước cũng không về nổi, hoặc những người đấu tranh thực sự muốn về nước thì không về được; chỉ có những người về thăm gia đình, du lịch bình thường thì về được mà thôi. Chúng ta ở ngoài này mà muốn tác động đến những người trong nước thì chỉ có hai con đường hành động là:
1) Làm sao chuyển tải tư tưởng, những bài báo trong và ngoài nước về cho đồng bào trong nước đọc;
2) Làm thế nào liên lạc được với những người chống đối trong nước, cổ động họ, khuyến khích họ vì hiện nay Cộng sản cũng đang tìm cách mua chuộc, dụ dỗ và hù dọa họ đấy. Chúng ta phải làm thế nào lôi kéo họ về phía chúng ta, đứng vững trên trận tuyến, cụ thể là những người đã bị Cộng sản mua chuộc( những người tương đối đứng tuổi ) như các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt. Sau này Hoàng Cầm có cho ra bài trường thi " Nhớ về Làng Sen" và Lê Đạt với " Trường ca Bác" với nội dung nhằm ca tụng , tâng bốc Hồ chí Minh để lấy điểm với Đảng Cộng sản. Người ta cảm thấy buồn khi hai kiện tướng Nhân văn - Giai phẩm lại đi làm chuyện hạ cấp, tồi bại như vậy chỉ vì một chút quyền lợi mà Đảng ban cho. .. Họ đã ca ngợi Cộng sản ra mặt dù trước đây họ có thích gì Cộng sản đâu, họ ghét ra mặt, họ ghét Cộng sản còn hơn Nguyễn chí Thiện. Thế mà vì cuộc sống, vì nhiều thứ, họ đã theo. Rồi có những người trước đây đã từng viết sách chống đối như Trần mạnh Hảo( tác giả cuốn sách " Ly thân " chửi Cộng sản không còn manh giáp, vừa xuất bản thì bị tịch thu ngay), bây giờ Trần mạnh Hảo trờ thành công an ; Diệp minh Tuyền cũng thế. Gần đây nữa là Bảo Ninh, Nguyễn Duy, Nguyễn huy Thiệp , được đi lại sang Mỹ, Pháp, Ý, Đức. Mà đi như thế thì dù chúng ta chưa đánh gía gì họ quá đáng nhưng cứ lấy những kinh nghiệm và hiểu biết trong quá khứ thì Nguyễn chí Thiện khẳng định những người trên cũng đã có những nhân nhượng đối với Cộng sản rồi; ít nhất là ra ngoài này không được nói xấu gì Cộng sản, không được kể xấu những chuyện mất tự do trong nước.. Như trước đây khi cụ Nguyễn mạnh Tường cũng như Nguyễn khắc Viện lên tiếng một tí là đã bị chúng cho người đến tận nhà dụ dỗ, dọa dẫm các cụ phải yên, yên cho đến chết; ngay nhạc sĩ Văn Cao cũng thế, suốt bao nhiêu năm cứ phải sống cái cảnh trên đe dưới búa, cho đến ngày chết cũng không lên tiếng được câu nào.
Biết như thế, chúng ta đừng để cho họ sa vào những chuyện đó. Chúng ta phải giữ mối liên lạc thường xuyên với họ, điều này cá nhân ông Nguyễn chí Thiện vẫn cố làm để cổ võ tinh thần anh em. Một mặt khác là bình diện quốc tế. Đây là một mặt quan trọng vì hiện nay bình diện quốc tế mù mờ về Việt Nam nhiều lắm vì Việt Nam là một nước nhược tiểu, ít được thế giới biết đến. Vì thế chúng ta có nhiệm vụ làm thế nào để ngoại giao, gặp những nhà báo ngoại quốc, điều trần trước Quốc Hội các nước phương Tây, gặp các nhân sĩ người nước ngoài, các cơ quan truyền thông, ân xá quốc tế.. để càng nói nhiều bao nhiêu về Việt Nam, làm cho họ hiểu rõ vấn đề Việt Nam bấy nhiêu thì càng tốt cho công cuộc đấu tranh.
Biết bao nhiêu chuyện ở Việt Nam cần nói ra. Bản thân nhà thơ Nguyễn chí Thiện khi nói chuyện với các nhà báo thế giới thì ông cũng khám phá ra rằng là họ hoàn toàn không biết gì cả. Chúng ta phải có những bằng chứng cụ thể, có những sự việc rõ rệt về tôi ác, những vi phạm nhân quyền có bằng chứng của Cộng sản, nêu lên thảm cảnh của Việt Nam, người dân đang sống như thế nào..tất cả những điều này mới có những tác động cụ thể đến thế giới. Từ tác động này mới tác động phần nào đến chính phủ họ, thí dụ như muốn viện trợ nhân đạo thì yêu cầu để viện trợ đến tận tay chứ không thể đưa tiền cho chính phủ Cộng sản Việt Nam. Việc này có thể làm được; hay những việc buôn bán, cho vay tiền thì phải kèm theo, gắn bó với một vài điều kiện cải thiện nhân quyền, như thế sẽ có lợi cho những cuộc đấu tranh cho chúng ta hơn- đó là công tác ngoại vận. Nhờ những công tác ngoại vận này nên những người trong nước được thế giới hay Cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến thì Cộng sản dù có giam cầm cũng không dám đầy đọa họ quá đáng, và rồi đến một lúc nào đó chúng cũng phải tha. Nhưng Cộng sản Việt Nam thuộc loại rất " xỏ lá", chúng coi những người này như những món hàng, mỗi khi nhả ra một tí lại câu một tí lợi về ngoại giao, về kinh tế cho bạo quyền. Nên chúng ta phải nhìn rõ sự thật như vậy, đừng có ảo tưởng xa xôi. Nhiều người vừa rồi thấy chính quyền Cộng sản tha 2000, 5000 tù- đó chỉ là tù hình sự lưu manh, tham ô- chỉ có hơn chục người là tội nhân chính trị. Số lượng tù chính trị trong tù tại Việt Nam vẫn còn tương đối nhiều, tuy nhiên phần nhiều họ là những người vô danh nên dù bị giam giữ mà hải ngoại không hề hay biết gì về họ để tranh đấu giải thoát họ. Mỗi khi người dân trong nước mở đài ( radio) nghe thấy ngoài này có những cuộc biểu tình, mít tinh đòi nhân quyền, đòi tha tù thì họ rất phấn khởi. Vì thế, chúng ta phải làm thế nào đưa những tin tức này về trong nước càng nhiều càng tốt.
Khi được hỏi là những người tranh đấu trong nước như Bác sĩ Nguyễn đan Quế, Giáo sư Đoàn viết Hoạt, các nhà lãnh đạo tôn giáo như Hòa thượng Thích Quảng Độ, các thượng tọa Trí Siêu, Tuệ Sỹ khi được thả ra thì họ có tạo được làn sóng chính trị nào ở trong nước hay không? Nguyễn chí Thiện cho biết tất cả những người này đều đóng những vai trò quan trọng. Nếu như ông Đoàn viêt Hoạt sau khi ra khỏi tù rồi tới hải ngoại mà hoạt động một cách nhiệt huyết, nghiêm túc, tìm gặp quốc tế, gặp các tổ chức, đi thuyết trình nói chuyện cho thế giới hiểu biết hơn về Việt Nam thì đây là một hành động tích cực, thúc đẩy thêm tình hình tranh đấu ở hải ngoại. Còn những người còn trong nước như Bác sĩ Nguyễn đan Quế thì Nguyễn chí Thiện đã có cơ hội tiếp xúc bằng điện thoại. Bác sĩ Quế, theo lời ông Thiện, hiện nay rất vững vàng và sẽ tiếp tục đâu tranh và không e ngại điều gì cả. Còn các vị Hòa thượng, Thượng tọa, các ngài coi nhà tù như nhà tu, họ rất bình thản, những tiếng nói của họ đã được chúng ta ở đây biết nhiều, chúng ta rất cảm phục nhưng nhân dân trong nước thì lại ít ai biết đến. Vì thế chúng ta phải đưa những tiếng nói của họ về lại trong nước để nhiều người biết. Hiệu quả này rất quan trọng vì các vị này là những người dám hy sinh, dám chịu tù tội để đấu tranh trước bạo quyền Cộng sản.
Về những bàn cãi về chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc cũng như vấn đề tương lai đất nước thì Nguyễn chí Thiện đưa ra nhận định là chuyện đòi hòa hợp, hòa giải với Cộng sản chỉ là một điều ảo tưởng. Khi muốn nói chuyện hòa hợp, hòa giải thì điểm đầu tiên người Cộng sản phải làm là nhận tất cả những lỗi lầm đã gây ra cho dân tộc, tất cả những quyền thiêng liêng của con người như tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, trả lại dân chủ, cho người dân đi bầu chọn người xứng đáng.. Nói chung là những quyền bình thường của con người sau bao nhiêu năm bị độc chiếm, giờ đây Cộng sản phải xin lỗi, trao trả lại cho toàn dân quyết định. Khi họ thực lòng làm như vậy thì lúc bấy giờ mới nói chuyện hòa hợp hòa giải, nghĩa là có thể bỏ qua những chuyện cũ. Còn bây giờ họ vẫn ngang nhiên ngồi chễm chệ để cai trị dân tộc, còn chúng ta vẫn kêu gọi hòa hợp hòa giải thì đó là một điều vô vọng. Có nhiều người kêu gọi như " giơ bàn tay ra cho họ bắt " nhưng giơ ra hàng chục năm nay mà Cộng sản có bắt đâu! Cho nên lúc này không cần thiết để nêu sự hòa hợp hòa giải lên.
Còn nói hòa hợp hòa giải giữa dân tộc với nhau, giữa những người Việt với nhau, việc này chẳng những bây giờ, mà từ ngàn xưa, rồi cho đến ngàn sau, một dân tộc thì bao giờ cũng có sự hòa thuận, có sự đồng nhất " Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn." Một dân tộc muốn tiến lên được thì nhất định phải có kỷ luật và có tinh thần tương thân tương ái, điều này muôn đời muôn kiếp vẫn phải nêu cao.
Bản thân Nguyễn chí Thiện lúc nào ông cũng tin đất nước sẽ có ngày tươi sáng. Từ những năm xa xôi mịt mùng trời đất, khi nằm trong tù, ông bao giờ cũng tin rằng Cộng sản sẽ tan rã vì nó phi nhân, trái với bản chất con người. Mà càng tàn độc, càng nham hiểm, thủ đoạn, đểu cáng bao nhiêu, thì càng tan nhanh bấy nhiêu. Ông vững tin như thếvà niềm tin này đã được chứng minh như cả một hệ thống Cộng sản thế giới đã tan vỡ như một giấc mơ, không ai lường được, không nhà tiên tri nào định được. Đó chính là vì bản chất sai trái đưa đến sự sụp đổ của chính nó, chứ không ai đánh đổ cả.
Ông tin niềm tin đó đúng. Đến hôm nay còn sót lại vài ba nước nghèo nàn đói khổ như Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc. Ông vẫn vững tin không lâu nữa đâu , tất cả những nước nói trên sẽ phải đi theo con đường dân chủ hóa vì nhân dân các nước đó không chịu chìm đắm mãi. Ngày này sẽ không còn xa xôi lắm, không phải đợi hàng chục năm hay nhiều hơn.
Trong nước hiện nay, ngay trong hàng ngũ đảng viên, kể cả trong quân đội lẫn công an, họ đã chán ngán cả rồi ! Không còn ai tha thiết nữa. Bây giờ chỉ cần có một điều kiện nào đó thì tất cả những cái đó sẽ tan, tan bất ngờ và nhanh chóng, vì nếu không có tâm trạng đó thì làm thế nào làm tan vỡ nổi nó. Như Liên Xô cũ với 20 triệu đảnh viên, 15 triệu đoàn viên, 4 triệu quân, có ai đánh đâu mà tự tan rã; vì chính 20 triệu đảng viên, công an, quân đội đã chán chế độ rồi. Việt Nam ngày nay cũng thế, chỉ cần một cơ hội nào đó, nó sẽ đến, nó sẽ quét sạch những lực lượng ngoan cố bảo thủ- dù còn rất ít- nhưng còn khống chế được đất nước. Ông cho rằng tương lai " tả trắng thắng cờ hồng" phải đến với dân tộc Việt Nam, sẽ đến khi thiên niên kỷ thứ ba bắt đầu.
" Tả trắng thắng cờ hồng" là thế nào? Tả trắng là sự sống, sự sinh sôi nảy nở, sẽ thắng cái tàn bạo, chết chóc là cờ hồng. Ai cũng mong ngày " tả trắng thắng cờ hồng" đến , nhưng muốn nó đến cho nhanh, chúng ta phải làm cho mọi người thấm thía hơn nữa về tội ác của Cộng sản đã gây ra cho dân tộc, tạo ra sự nghèo nàn, lạc hậu mà đất nước đang chìm đắm. Tóm lại là làm cho mọi người biết rõ thực chất của chế độ Cộng sản, thực chất của Đảng. Điều này ông đã suy nghĩ đã lâu, đã làm những câu thơ và đã in ở hải ngoại. Ông chỉ nhân đây nhấn mạnh lại điều đó vì đó là tiếng nói vô cùng quan trọng:
"Khi nhân loại mọi người đều biết
Cộng sản là gì tự nó sẽ tan đi
Thứ sinh thành từ ấu trĩ ngu si
Sự hiểu biết sẽ là mồ hủy diệt"
Chúng ta phải làm cho toàn dân, kể cả đảng viên lẫn quân đội, công an hiểu biết , vì càng biết bao nhiêu, thì chế độ Cộng sản sẽ tàn lụi và tan vỡ nhanh chóng bấy nhiêu. Tâm trạng rã rời của những người này sẽ làm chế độ rã ra với một tốc độ nhanh và không có gì có thể hàn gắn lại được. Chế độ sắt máu Cộng sản cũng được xây dựng nên bởi con người và nó cũng sụp đổ khi con người xây dựng nên nó tới thời kỳ rã rời, suy sụp. Một tòa nhà sắt thép mới trông vào thì trông có vẻ cứng rắn, vững chắc nhưng đã mục nát tận gốc rễ, cho nên chỉ cần một cơn gió nhẹ bất ngờ thổi qua sẽ làm cho tòa nhà này sụp đổ tan tành.
Trong bài thơ " Sẽ có một ngày" Nguyễn chí Thiện đã nói lên tiếng nói và ước nguyện của mấy chục triệu người Việt Nam. Lời thơ bồi hồi, cảm xúc cùng mang tính tiên tri của thời đại:
Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng
Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Oan khiên !
Về với miếu đường, mồ mả, gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan, tan về cao rộng
Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trên mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng !
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng tiến quân ca
Và quốc tế ca
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la !
( 1971)
Mặc dù được hai người bạn tù là Minh Thi và Trần Nhu công bố tên tác giả nhưng rồi số phận tác giả tập thơ cũng còn long đong. Đó là không hiểu tại sao tờ báo của ông thầy bói Lê tư Vinh dựng lên một luận điệu cho rằng tác giả tập thơ là Lý Đông A, một người đấu tranh trong thời Pháp thuộc có một vài tác phẩm lý luận chính trị như " Huyết Hoa" , ông bị mất tích và không ai còn nghe gì đến ông nữa. Nói chung những luận điệu nhằm chứng minh Lý Đông A là tác giả tập thơ hết sức mơ hồ và không có căn bản khoa học gì cả. Có điều khó hiểu là có nhà báo Cao thế Dung và Bác sĩ Trần ngọc Ninh nhảy vào phụ họa cho lập luận của tờ Vạn Thắng. Sau khi nhà thơ Nguyễn chí Thiện đến Mỹ năm 1995, với những chứng cớ không thể chối cãi được, hai ông Cao thế Dung và Trần ngọc Ninh im lặng. Dĩ nhiên là họ đã thấy cái hố của họ. Đúng ra muốn làm một người cầm bút chân chính và lương thiện, họ phải viết bài công khai nhận những lỗi lầm suy đoán của mình. Chỉ tiếc rằng họ chưa đủ can đảm làm việc đó. Trong cuộc đời này, ai mà không phạm phải lỗi lầm, khi phạm mỗi lầm mà công khai nhận lỗi của mình thì không làm cho nhân cách của mình thấp kém đi chút nào,mà trái lại càng làm cho nhân cách mình cao cả thêm lên. Hy vọng hai ông Cao thế Dung và Trần ngọc Ninh sẽ công khai nhận rõ lỗi lầm của mình để có thể trở nên con người cao cả. Những nhận định sai lầm của hai ông về tác giả " Hoa địa ngục " đã tạo ra một không khí nghi kỵ về tác giả tập thơ là nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Dĩ nhiên điều này không tránh khỏi chuyện làm nhà thơ buồn lòng , đó là một điều đáng buồn không nên để xảy ra đối với một người tranh đấu đã trải qua 27 năm trong lao tù Cộng Sản. Cho tới giờ phút này nhóm Vạn Thắng còn cho ông Nguyễn chí Thiện là cò mồi của Cộng sản !! Tội nghiệp cho ông thầy bói đầu nậu của Vạn Thắng là Lê tư Vinh, một người không có văn hóa cũng như trình độ chính trị để rồi đưa đến chuyện phát ngôn bừa bãi trong những nhận định về tập thơ " Hoa địa ngục" cũng suy đoán hồ đồ về tác giả của nó như đã nêu trên. Ở thế giới ngày nay , làm chính trị cứu nước cứu dân cũng phải có một trình độ nhận thức tối thiểu. Đất nước Viết Nam có lẽ sẽ chẵng bao giờ ra khỏi cảnh tối tăm nếu có những ông thầy bói đui mù đi làm chính trị. Chỉ cần thấy họ múa may vài đường là người ta nhìn ra ngay cái bản chất vô học, ngu xuẩn, và độc ác của họ. Tới giờ này bản thân những người " vu oan giá họa " cho Nguyễn chí Thiện đều đã thấy " hố" , tuy nhiên họ vẫn cứ khăng khăng giữ lấy sự suy đoán sai trái của mình vì không đủ liêm sĩ để nhìn nhận sự thật. Ở đời này, kiếm một người cầm bút có lương thiện cũng thật là khó như tìm sao đêm ba mươi.
Điều đáng buồn hơn nữa là tờ báo lo chuyện phát hành đầu tiên tập thơ " Hoa địa ngục " là tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong giờ đây cũng giở giọng cho Nguyễn chí Thiện không phải là tác giả tập thơ. Nguyên nhân sâu xa là tờ báo này nghi ông Nguyễn chí Thiện cộng tác với Mặt trận , một kẻ thù không đội trời chung của tờ báo này. Lối cư xử " giận cá chém thớt " thiếu văn minh yếu kém này của tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong chỉ làm cho người đọc coi rẻ và khinh bỉ tờ báo này thêm. Coi Nguyễn chí Thiện không phải là tác giả tập thơ " Hoa địa ngục " chưa đủ, tờ báo còn " chụp mũ " nhà thơ là cán bộ Cộng sản gài qua hải ngoại này nọ. Biết đến bao giờ làng báo hải ngoại mới khá hơn nếu còn có những tờ báo hạ cấp,bẩn thỉu như tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong này. Ở đây chúng ta cứ hô hào là Cộng sản phải để cho báo chí trong nước được tự do hành xử đệ tứ quyền ( tức là quyền tự do báo chí) mà có những tờ báo hải ngoại, sống trong không khí tự do, lại chuyên loan những tin vô căn cứ và độc ác nhằm hạ nhục người khác như trường hợp tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong đối với nhà thơ Nguyễn chí Thiện thì thật là đáng buồn thay.
Có thêm một sự kiện nữa xác định Nguyễn chí Thiện là tác giả tập thơ " Hoa địa ngục" . Đó là sự lên tiếng của nhà văn Vũ thư Hiên trong tập hồi ký chính trị " Đêm giữa ban ngày " của ông. Ông Hiên là bạn tù của Nguyễn chí Thiện. Ngày xưa ở tù chung với ông Thiện, ra tù ông Hiên kể rõ ông Thiện có đến thăm ông tại nhà, và có điều thú vị cần nói ra ở đây là hai ông cùng ở chung với nhau trong một nhà tại Pháp năm 1989- 1999 trong chương trình bảo trợ cho những nhà văn bị đàn áp do Âu châu lập nên. Đúng là trái đất bao giờ cũng tròn.
Trong cuốn sách " Đêm giữa ban ngày " Vũ thư Hiên có kể những mẩu chuyện tai nghe mà ông chứng kiến trong tù về Nguyễn chí Thiện như sau :
" Anh Nguyễn chí Thiện, một tù nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong tầng lớp trí thức của xã hội tù, bĩu môi:
- Các anh nói thối bỏ mẹ: " trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo ". Dân chúng chẳng cần tới sự lãnh đạo của các anh. Vì các anh dân mới đói. Vì các anh dân Trung Quốc mới thân tàn ma dại.
Ông bí thư huyện, anh hùng lao động nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, im lặng.
..... Thiện trợn mắt nhìn tôi. Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh, cộng sản là xấu , là tồi tệ ,là kinh tởm, chấm hết . Không một cái gì của Cộng sản có thể là tốt.
Cái cách tôi đánh đồng loạt chính quyền Tưởng Giới Thạch với chính quyền Mao Trạch Đông như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận tôi như một ngoại lệ.
Nguyễn chí Thiện làm nhiều thơ. Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần... kẻ đứng người ngồi trang ráng chiều bàng bạc của một vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới bức tranh vẽ Những Người Tháng Chạp trong cảnh lưu đầy ở Sibir thời Sa hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn chí Thiện không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bỗ bã, nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu thơ, một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng lại trong trí nhó:
Không có chỗ trên con tàu Trái đất
Tôi là người hành khách bơ vơ
Lỡ chuyến, lầm ga , mất cắp , bây giờ
Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh ngắt
Cái toa đen dành cho súc vật
Hoặc
Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương..
Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng
Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương .. ( 1)
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng là cặp mắt lồi ngơ ngác.
Bộ quần áo trại phát, dự tính cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo, làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi bặm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định dọn dẹp nó hay sữa chữa nó. Nói tóm lại, anh chẳng gây sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là người tù không thể bẻ gãy. Tinh thần bất khuất trong những người tù không biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần, thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy Nguyễn chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại. Trông anh như bộ xương người trong giờ cách trí- lồng ngực ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi, Thiện mặt đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi:
_ Chúng nó bắt được mấy bài thơ của Thiện
Những người tù số lẻ lặng lẽ đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi nghĩ : chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại lệ mà người tù chống cộng cực đoan dành cho tôi:
_ Thiện nó tin anh lắm đấy! Mà cũng trọng anh lắm đấy ! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho anh nghe đâu.
Tôi hiểu Kiều Duy Vĩnh quý tôi. Trong cái sự trọng tôi của Nguyễn chí Thiện có ảnh hưởng tình cảm của Kiều Duy Vĩnh dành cho tôi. Nhưng không có Kiều Duy Vĩnh thì Nguyễn chí Thiện cũng vẫn tin tôi không làm ăng-ten. Những người tù trí thức khác cũng tin như vậy. Nguyễn chí Thiện có trọng tội hay không là chuyện không quan trọng. Trong tù tôi học được cách sống tự tại,mặc kệ người ta nghĩ về mình thế nào. Tôi mãi mãi vẫn là người, không phụ thuộc vào sự đánh giá của bất cứ ai.
( Đêm giữa ban ngày - trang 727)
" ... Nguyễn chí Thiện được thả ra năm 1977. Từ ga Trần quý Cáp anh tới thẳng nhà tôi, ăn với tôi bữa cơm rồi mới về Hải Phòng. Thỉnh thoảng anh lên Hà Nội chơi lại rẽ vào thăm tôi. Vẫn ngơ ngác nhìn đời qua cặp kính trắng, ít nói hơn cả trong khi ở tù, còn ít cười hơn nữa, Nguyễn chí Thiện hoàn toàn thu mình vào nội tâm. Tôi giao cho anh bột nở về bán cho các hàng cháo quẩy của thành phố cảng. Khi tôi chế bột nở cho cao su, anh cũng bán được một ít cho những người người buôn hàng vào Nam. Nhưng anh không có khiếu thương mại. Tôi vào Sài Gòn hẳn từ năm 1983. Năm 1988 tôi ra chơi, Lê Trình báo tin Nguyễn chí Thiện đã bị bắt lại. Anh chạy vào sứ quán Anh ở Hà Nội, trao cho họ tập thơ anh làm trong tù rồi bước ra để vào Hỏa Lò, ở thêm mấy năm nữa. Trình kêu gọi anh em bạn tù góp tiền cho gia đình Nguyễn chí Thiện tiếp tế cho anh. Năm 1994 Nguyễn chí Thiện sang Mỹ (2), từ đó anh đi khắp thế giới để chửi chính quyền Hà Nội . Tôi đọc báo và buồn lòng thấy anh chống cộng vung vít, chống luôn cả những hành động cứu trợ, theo anh nói, nuôi béo chính quyền cộng sản. Tôi biết có những vụ tham ô hàng và tiền cứu trợ, nhưng không phải tất cả đều thế. Anh còn nói rằng không thể tin được bọn cộng sản ly khai, quên khuấy rằng họ cũng là những người yêu nước không kém gì anh, ít nhất là như thế. Nhưng nghĩ tới những gì Nguyễn chí Thiện đã trải qua, tôi hiểu nỗi căm giận của anh.
( Đêm giữa ban ngày - trang 764)
Hai đoạn văn trích dẫn trong cuốn sách " Đêm giữa ban ngày " của nhà văn Vũ thư Hiên đã chói rọi thêm vào tập thơ " Hoa địa ngục " của tác giả Nguyễn chí Thiện. Cả cuộc đời yêu thơ như chính máu thịt của mình, nhà thơ khốn khó vì thơ từ những ngày trong tù như đoạn văn kể trên cũng như sau này ra hải ngoại , nhà thơ cũng còn gặp những sự buồn phiền vì đứa con tinh thần được làm trong 20 năm tù đày bị gán cho là của người khác. Nhà văn Vũ thư Hiên hiện nay sinh sống ở Âu Châu và chắc chắn sẽ trả lời những nghi vấn thắc mắc về người bạn tù Nguyễn chí Thiện của ông.
Trong hai đoạn văn trích dẫn trên còn có nói đến nhân vật Kiều duy Vĩnh. Đây là một đại úy thời Pháp và là bạn tù của Nguyễn chí Thiện. Cách đây mấy năm ông Vĩnh có viết một bài hồi ký nhỏ nhan đề " Tôi đã gặp các thánh tử đạo " đăng trên tờ báo Thế Kỷ 21 ở Nam California. Ông Vĩnh hiện nay sống ở Hà Nội và là người cung cấp cho một ký giả Pháp bản đồ trại giam Thanh Cẩm để ký giả Pháp này đột nhập và tường trình chế độ giam cầm của Cộng Sản cách đây không lâu. Hiện nay ở tại California cũng như những nơi khác trên đất Mỹ có những người tù Biệt kích nhảy toán ra Miền Bắc đã gặp và biết Nguyễn chí Thiện từ trong những ngày tù tội. Những người này là những chứng nhân cho kẻ sĩ Nguyễn chí Thiện trong những ngày ngục tù mà nhạc sĩ Phạm Duy đã thân tặng ông danh hiệu " Ngục sĩ". Cái tên mà trước đây chưa từng ai có và sự bất khuất trong những năm tù tội cho thấy Nguyễn chí Thiện rất xứng đáng được gọi là " Ngục sĩ".
Tuy nhiên yếu tố dứt khoát để xác định tập thơ " Hoa địa ngục " là của Nguyễn chí Thiện vì nét chữ Nguyễn chí Thiện bây giờ giống y chang nét chữ trong tập thơ được quăng vào Tòa đại sứ Anh ở Hà Nội .( Xin coi phần phụ lục để chứng thực điều đó).
Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, một số quân nhân Mỹ cụt hai tay khi về lại quê hương đã được tập viết bằng ngón chân. Có điều ngạc nhiên là chữ viết bằng chân của họ cũng na ná giống như chữ viết bằng tay của những ngày chưa bị mất tay. Điều đó chứng tỏ một điều : hình dạng của chữ viết là do bộ óc, ngón tay và ngón chân chỉ là phương tiện biểu hiện ra chữ viết mà thôi. Bảy mươi tám triệu người Việt quốc nội và hai triệu người Việt hải ngoại chắc chắn không có ai có nét chữ giống nét chữ của tập thơ. Nguyễn chí Thiện là người duy nhất có nét chữ giống chữ viết trong tập thơ vì ông là tác giả của tập thơ. Phải nói tập thơ xuât hiện dưới hình thức viết tay nên ngày nay sự chứng minh ai là tác giả tập thơ đã qúa rõ ràng minh bạch, chứ nếu tập thơ được đánh máy thì giờ này ai cũng nhảy vào tự nhận là tác giả tập thơ được cả.
Cách đây trên mười năm có một tin làm xôn xao chấn động dư luận thế giới là người ta tìm ra được một bộ hồi ký của trùm Phát xít Hitler. Ngay cả tờ báo chính trị đứng đắn của Mỹ là tờ Newsweek cũng tính ra một số đặc biệt về cuốn hồi ký độc đáo này. Nhưng trước khi được in thành sách, các nhà kiểm tự thế giới đã nhảy vào làm việc để chứng thực coi có phải cuốn hồi ký này là do Hitler viết hay không. Họ đem chữ viết của Hitler để so sánh với nét chữ trong cuốn hồi ký mới tìm thấy này. Sau vài ngày họ cho biết cuốn hồi ký này thuộc loại dỏm. Những tay lưu manh đưa ra cuốn hồi ký này nhằm tính chuyện hốt bạc đã không qua mặt nổi những nhà kiểm tự . Cho nên yếu tố chữ viết bản thảo là yếu tố quyết định ai là tác giả. Trời sinh mỗi người có một khuôn mặt thì trời cũng sinh mỗi người có một nét chữ viết đặc thù riêng biệt . Ngay cả hai anh em sinh đôi dù có nét mặt giống nhau không thể phân biệt được thì chắc chắn họ cũng sẽ có hai nét chữ viết khác nhau , và nếu họ có viết văn làm thơ thì cũng dễ dàng nhận ra được sản phẩm tinh thần của mỗi người bằng cách căn cứ trên chữ viết riêng biệt. Chữ viết có thể coi như là dấu tay của mỗi người và không thể lẫn lộn được. Những người giả chữ viết của người khác thì cũng chỉ qua mặt người thường chứ không bao giờ qua mặt nổi những chuyên viên kiểm tự chuyên nghiệp/. Đó là một điều chắc chắn dựa trên căn bản khoa học.
Sau khi ra tù lần cuối,nhà thơ Nguyễn chí Thiện có gửi cho người anh ruột định cư tại tiểu bang Virginia một số bài thơ, (ông anh này tên Nguyễn công Dân, tốt nghiệp khóa 4 Thủ Đức ( cùng khóa với các tướng Ngô quang Trưởng, Bùi thế Lân v..v), làm việc tại phòng 2 bộ Tổng tham mưu và có tham gia vào phái đoàn VNCH đi dự hòa đàm Paris vào những năm 1970. Ông Dân vào Nam năm 1954 trong khi tất cả gia đình , trong đó có Nguyễn chí Thiện ở lại miền Bắc ), trong đó có bài " Con thành thi nhân " có nội dung như sau:
Con thành thi nhân cũng chính là nhờ
Công sức mẹ thầy nuôi cho ăn học
Gia cảnh bần hàn lo toan chăm sóc
Con chỉ nằm đọc sách luyện vần thơ
Không mảy may báo hiệu được một ngày
Thực có tội với mẹ thầy biết mấy !
Song lòng già rất thương, đâu nghĩ ngợi
Chỉ mong con nên sự nghiệp ,nên người
Trước lúc qua đời, thầy mẹ còn lo
May quần áo để tù về con sẵn có
Tình thầy mẹ mênh mông như thế đó
Thế gian này không có thứ đem so !
( Hoa địa ngục tập 2- 1980)
Nhà thơ Vi Khuê cũng ở tại Virginia nên có cơ hội đọc những vần thơ mới này. Với bút hiệu Nguyễn thị Bình Thường , bà nhận xét như sau trên tờ báo Phụ nữ diễn đàn : " Đúng là hơi thơ của Nguyễn chí Thiện " . Đây là một nhận xét đúng đắn. Thật ra một người khi làm văn thì có văn phong riêng cũng như khi làm thơ thì có hồn thơ riêng, khó có thể lầm lẫn với người khác được. Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Tuân đều có văn phong ghi đậm dấu ấn của mỗi người, cũng như những nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử đều có những bài thơ mang hơi hướm của từng riêng người. Về nhạc thì cũng thế, mỗi người nhạc sĩ đều có mỗi nét riêng tây khi viết nhạc. Nhạc Trịnh công Sơn mang âm điệu của một chất morphine rời rã, trong khi đó hầu như bài nhạc nào của Hùng Lân đều có âm hưởng hùng tráng. Nhà văn, nhà thơ, nhà làm nhạc đều lưu lại dấu vết đặc thù trên mỗi đứa con tinh thần của mình. Và người sành điệu hiểu biết chỉ cần đọc một đoạn văn, một bài thơ hay nghe âm điệu một khúc nhạc thì cũng gần nhừ đoán được đó là của ai.
Một điểm nữa cần nói ở đây là như đã được nói ở trên là kèm theo tập thơ có một lá thư viết bằng tiếng Pháp lưu loát. Điều đó chứng tỏ rằng nhà thơ là một người thông thạo Pháp ngữ. Mấy năm nay ở Pháp, Nguyễn chí Thiện đã chứng tỏ khả năng tiếng Pháp cứng cỏi của ông bằng cách trả lời bằng tiếng Pháp trong các cuộc phỏng vấn của ký giả Pháp ngay trên đài truyền hình Pháp. Đây lại là một điểm nữa chứng minh tác giả " Hoa địa ngục " là Nguyễn chí Thiện.
Sau 27 năm tù tội, cuối cùng do sự can thiệp của một đại tá Mỹ gốc Nhật ở San Jose, Nguyễn chí Thiện đã tới Mỹ vào tháng 11 năm 1995. Ông nói sơ qua về gia cảnh và chuyện quăng tập thơ vào tòa đại sứ Anh như sau:
" Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm 1939 ( Tuổi Kỷ Mão). Bố ông là một công chức thời Pháp thuộc. Ông có người anh tên Nguyễn công Dân ( hiện cư ngụ tại Virginia) đã vượt tuyến vào Nam năm 1954 và sau này mang cấp bậc Trung tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông Thiện không có vợ, không con. khi được thả năm 1977 ông sống ở Hải Phòng với bà chị đầu. Ngày 10 tháng 7 năm 1979 ông đi lên Hà Nội. Mặc dù có một bà chị ruột ở Hà Nội, ông đến nhà một người bạn, ngồi trên gác nhà ấy và viết ra 4000 câu thơ trong ba ngày ròng rã mà ông nhớ trong đầu sau hai mươi năm tù đầy. Ngày 16 tháng 7 năm 1979 , vào khoảng 9 giờ sáng thì ông xông vào Tòa Đại sứ Anh để quăng tập thơ và bị bắt liền ngay sau đó và ở tù thêm vài năm nữa mới được thả ra."
Những lời tâm sự bộc bạch của ông đã rất đúng với gia cảnh của người viết tập thơ " Hoa địa ngục". Khi xuất bản tập thơ " Hoa địa ngục , tập 2 " tại Hoa Kỳ, ông tâm sự thêm về phương hướng và hoàn cảnh làm thơ của ông ( trong " Lời nói đầu " )
" Với hoàn cảnh ấy, tôi phải làm thơ, nhất là ở trong tù, giấy bút không có , khám trại thường xuyên, bọn tù bẩm báo lại không thiếu. Thơ có thể làm trong đầu, học thuộc giữ trong đầu. Văn xuôi thì chịu ! Nhưng dùng thơ mà để bàn đến chính trị, mà để luận tội, mà để miêu tả hiện thực, toàn cảnh bắn giết, đánh đập, cùm kẹp, đói rét, ốm đau, đờm máu, rớt dãi, tranh giành ngô, khoai, sắn, thì rất khô khan, khó có chất thơ, nhưng vẫn phải làm để cho mọi người và con em sau này biết rõ về tội ác Cộng sản, về thảm cảnh của dân tộc. Để loại thơ này đỡ nhàm chán, trong muôn ngàn sự việc xảy ra hàng ngày, trong muôn ngàn tâm tư, cảm xúc, tôi cố chọn lọc những gì nổi bật nhất, đập vào tim óc nhất. Coi mình là người ghi chép cảnh thực, tình thực của một giai đoạn lịch sử đớn đau tột độ, tôi luôn tôn trọng sự thật, không cường điệu, khuếch đại, bôi đen, hoặc gay cấn hóa. Vả lại, nguyên những sự thực cũng chỉ ghi được phần nào, cần gì phải vẽ vời thêm! Tôi hết sức tránh những chữ , những hình tượng cầu kỳ, văn chương, vì nó không phù hợp với loại thơ tôi làm. Tôi cố vươn tới sự giản dị như một nhà thơ Pháp đã nói: S elever à la Simplicite . Nhà phê bình Viên Mai đời Thanh có kể lại chuyện một anh bán cháo lòng, khi mẹ chết có làm mấy câu thơ khóc mẹ :
Khốc nhất thanh
Khiếu nhất thanh
Ngã đích thanh âm nương quán âm
Như hà nương bất ứng !
Tạm dịch
Khóc một tiếng
Gọi một tiếng
Tiếng con thân quen với mẹ là vậy
Mà sao mẹ không trả lời !
Và Viên Mai phê : " Đọc xong, người đọc nhợt nhạt cả mặt mày! Khi còn trẻ, đọc xong tôi cũng thấy lòng lịm đi. Không thấy chữ nghĩa đâu, hình tượng , văn chương đâu, chỉ thấy nỗi đau đớn bàng hoàng của người con bên xác mẹ. Thì ra " Thi tại ngôn ngoại, bất tại ý trung " là vậy !...
Nhưng giản dị khác với nôm na, tầm thường . Cái khó là ở chỗ đó. "
Đó là những lời tâm sự chân thành của Nguyễn chí Thiện trong khi làm thơ. Đọc bài thơ nào của ông ta cũng thấy cái ý tưởng độc đáo và cái tứ thơ dồi dào, được diễn tả bằng lời thơ dào dạt, khúc chiết. Người bình dân cũng như giới trí thức đều cảm nhận được hồn thơ của Nguyễn chí Thiện vì ý thơ ông sâu sắc mà lời lẽ diễn ta thì lại dễ hiểu, bình dân. Những người phê bình văn học thường cho thơ Nguyễn Bính có âm hưởng ngọt ngào của ca dao, còn thơ Nguyễn chí Thiện được coi như tiếng lòng thổn thức khi diễn tả những chuyện đau thương, buồn nản. Nhưng loại thơ chiến đấu của ông thì khác hẳn, lời thơ giờ đây mạnh như vũ bão, có tác dụng thôi thúc người đọc lên đường. Những người tranh đấu cho quê hương hôm nay có thể tìm thấy ở thơ Nguyễn chí Thiện như một thứ hành trang lên đường.
Mặc dầu dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu thơ, có điều nghịch lý là giá trị của văn thơ lại không có giá trị lắm trong xã hội. Thời tiền chiến nhà văn Nguyễn Vỹ đã từng than thở, " Nhà văn An Nam khổ như chó " , Tản Đà có lẽ cũng đồng ý khi phụ họa " Văn chương hạ giới rẻ như bèo". Những điều đánh giá này có thể ứng vào thơ Nguyễn chí Thiện hay không? Không hẳn như thế, mới đây ký giả Michael Lind, tác giả của cuốn sách " The necessary war" ( Cuộc chiến tranh cần thiết) có viết thư cho nhà thơ Nguyễn chí Thiện, xin trích dẫn bốn câu thơ của nhà thơ để đưa vào sách của ông và xin trả 500dollars. Năm trăm dollars để trích dẫn bốn câu thơ của Nguyễn chí Thiện vào sách! Xem thế thì thơ Nguyễn chí Thiện không bao giờ rẻ giá cả, hiểu theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen !
Bốn câu thơ của Nguyễn chí Thiện mà ông Michael Lind xin phép trích dẫn để đưa vào sách của ông là bốn câu:
Giả thử Đảng và Bác
Cho đi lại tự do
Thời thiên đường cụ Mác
Sẽ khỉ gáy cò ho
( If Uncle and the Party, let's suppose,
allowed free movements in and out
Grandfather Marx's paradise
would soon become the wilds
where monkeys roam )
( Bản dịch của Huỳnh sanh Thông)
Đọc toàn bộ tập thơ, người ta thấy rõ ràng cái khí khái anh hùng của nhà thơ, luôn quyết tâm chống lại với cái ác. Riêng cái hành động vào Tòa đại sứ Anh để quăng tập thơ cũng là hành động biểu hiện tinh thần " vô úy" của ông. Nhà văn Nguyễn Tuân trước khi lìa đời đã để lại câu nói thành thật, " Cuộc đời tôi còn sống đến giờ này là bởi biết sợ " . Nguyễn chí Thiện thì quan niệm ngược lại, ông thẳng thắn tuyên bố là không sợ gì cả ( Đừng sợ cái cực kỳ man rợ. Dù nó đương thịnh thời rông rỡ nơi nơi). Dù không biết sợ ông vẫn sống tới giờ này ( 2001) và từ khi còn ở trong nước, ông còn tuyên bố là sẽ còn sống lâu hơn Đảng Cộng sản Việt Nam! Thái độ sống của Nguyễn Tuân hay Nguyễn chí Thiện, thái độ nào là của một kẽ sĩ , câu trả lời đã quá rõ ràng.
Phan nhật Nam, một nhà văn nổi tiếng với những bút ký chiến trường rực lửa, được nhà văn Tạ Tỵ nhận xét là " không ai có thể viết hay hơn", cũng chia xẻ chút ý kiến về Nguyễn chí Thiện với những anh em trong Nguyệt san Việt Nam ở Canada vào cuối tháng 12-2000 như sau:
" Cũng phải nói thêm một điều cho bớt tức: Phe ta ở hải ngoại sao chỉ lo chuyện ruồi bu- như đặt lại căn cước của Nguyễn chí Thiện- mà quên hẳn kẻ nội thù gài mìn ngay dưới chỗ nằm của mình.
Ông Nguyễn chí Thiện theo tôi là: Người độc nhất còn giữ được phẩm giá con người ở đất Bắc. Những " trí thức khoa bảng" như Nguyễn mạnh Tường, Trần đức Thảo còn bị thằng " câu ếch họ Hồ " lường gạt, chỉ còn con người này với tâm chất thực của một " thi sĩ ". Đáng kính phục lắm thay.
" Nghệ sĩ nhân dân Văn Cao" theo tôi cũng gọi là.. xoàng, vì kém hẳn khí phách của Trần Dần, Phùng Quán, Quang Dũng !!! Tài giỏi mà hèn lắm chỉ như Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên..và cả tập thể " Văn Công" ở đất Bắc kia."
Những nhận xét của Phan nhật Nam rõ ràng là những nhận xét hiểu biết, chân thành, chí tình , chí lý.
Mấy tuần nay , dư luận hải ngoại xôn xao khi nghe tin Linh mục Nguyễn văn Lý tuyệt thực ở xứ đạo Nguyệt Biểu, Huế để chống lại sự đàn áp tôn giáo và tịch thu đất đai của giáo hội. Trước đó linh mục có gửi email ra hải ngoại và tâm sự thêm Nguyễn chí Thiện mà linh mục có dịp gặp gỡ trong những ngày tù tội. Bức thư emai ngày 26 tháng 11 năm 2000 của linh mục gửi ra hải ngoại có đoạn:
" Có lẽ các bạn và anh T. không thể kiểm tra được Nguyễn chí Thiện đâu. Vì làm sao các bạn biết nhà thơ vĩ đại Nguyễn chí Thiện được? Ông ở tù trong chế độ CSVN 30 năm khi mới 20 tuổi. Năm 1991, khi ông được phóng thích, mới chỉ hơn 50, mà đã già lom khom như cụ già 70 ! Sức khỏe không có, nhưng giọng vẫn còn oai vang, nói nhất là đôi mắt lồi, " không lé ", và rất tinh anh uy dũng. Đầu óc nhận thức còn rất minh mẫn, sắc bén. Tác phong uy nghiêm, chững chạc, bộc lộ một nhân cách hoàn hảo. Ăn nói đúng mức, cẩn trọng. Thái độ văn minh, lịch sự như bậc hiền sĩ , quân tử. Đúng là một nhà trí thức vĩ đại, xúng đáng giải Nobel văn học. Khi tôi ra khỏi tù cuối năm 1992, ngay đêm đầu tiên tôi đã đột nhập vào nhà ông ở Hà Nội, được canh chừng rất cẩn thận, để gặp ông lần cuối, trước khi ông được một đại tá Mỹ và các nhà lãnh đạo ở Âu châu bảo lãnh. Có lẽ trên đời này , True Nguyễn chí Thiện không tin và yêu thương ai hơn tôi nữa. NCT dễ bị giả là vì không ai ở Mỹ - Âu Châu biết mặt NCT cả. Có người bà con ở Mỹ, nhưng khi bị bắt, NCT còn quá trẻ, còn nay thì đã già rồi, ngay người bà con ấy cũng không thể nhận ra NCT thật hay giả. Giữa ông và tôi có những quan hệ mà chỉ 2 người biết, vì tôi ở với ông hai năm cuối cùng, trước khi NCTđược chuyển về Quân y viện 108 để bồi dưỡcng và làm thủ tục phóng thích. Tôi dạy giáo lý cho ông hơn 1 năm . Ông hứa với tôi " chắc như đinh đóng cột " những gì, chỉ có chúng tôi biết. Từ 1993/1994, khi NCT ra đi,(3) tôi đã thư liên lạc bằng nhiều cách, nhưng NCT không hề đáp lại. Vậy nay chỉ cần các bạn gặp, nói rằng có Lm Nguyễn văn Lý gửi lời thăm và rất muốn nói chuyện với ông qua phone : 011.84. 54. 846429 hoặc 011. 84. 54. 881061. Nếu NCT bằng lòng với thái độ rất phấn khởi, mới hy vọng đó là True NCT. Nếu NCT tỏ ra ngạc nhiên, do dự, không biết NVL là ai, hoặc miễn cưỡng nói chuyện , thì đúng là False NCT rồi. Hơn nữa qua Phone, tôi chỉ cần hỏi 2 câu là lột mặt nạ được NCT giả hay thật ngay. Các bạn cố gắng giúp tôi tiếp xúc qua Phone với NCT càng nhanh càng tốt. Bạn nào có thể chụp ảnh NCT rõ, Scan photos ấy, gửi về tôi. Tôi sẽ kiểm tra lại giúp."
Được bạn bè báo cho biết Linh mục Lý đang tìm mình, nhà thơ Nguyễn chí Thiện, hiện đang ở bên Pháp , đã gọi điện thoại về ngay cho Linh mục Nguyễn văn Lý và Linh mục Lý xác nhận đúng là nhà thơ Nguyễn chí Thiện mà linh mục đã gặp trong tù. ( Có thể kiểm chứng điều này với ký giả Hải Triều, chủ biên tờ Nguyệt San Việt Nam ờ Canada). Nếu ai còn muốn tìm hiểu thêm sự thật , xin cứ liên lạc với Linh mục Lý để tìm hiểu sự thật về nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Cũng mong nhóm Vạn Thắng và tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong sẽ liên lạc với LM Lý để tìm hiểu sự thật về Nguyễn chí Thiện và sẽ không còn viết lách nhảm nhí, láo lếu nữa. Càng viết bậy thì lại càng bị quần chúng độc giả khinh chê và tự mình chôn vùi tên tuổi của mình.
Cách đây trên mười năm tuần báo Diễn Đàn Thanh Niên ( San Diego) có viết một bài bình luận về Ngục sĩ Nguyễn chí Thiện. Bài báo cho rằng với sự dũng cảm vô song, với tài trí tuyệt vời, Nguyễn chí Thiện xứng đáng được gọi là một " vĩ nhân ". Toàn dân hải ngoại và có lẽ dân trong nước sau này sẽ đồng ý với nhận định chính xác này. Ở Việt Nam trước đây, Thủ tướng Phạm văn Đồng có viết sách ca tụng Hồ chí Minh là " vĩ nhân" . Thật ra, phải gọi Hồ chí Minh là "quái nhân " mới đúng vì những tội ác giết người của y đối với dân tộc Việt. Nói đúng thì phải dùng chữ " quái vật" để diễn tả con quỉ vương Hồ chí Minh vì ông ta là quỷ chúa và còn có khả năng biến người khác thành quỷ giết người man rợ. Ngày nay con quỷ vương họ Hồ này đang bị mổ bụng nằm ở quãng trường Ba Đình đã ba mươi năm rồi không được chôn. Nhìn dưới con mắt nhà Phật thì Hồ đang trả quả báo. Hy vọng chế độ sắt mắu Cộng sản do Hồ dựng lênâ sẽ tan tành để rồi xác Hồ có thể đốt thành tro bụi và rải trên núi sông như di chúc Hồ đã viết . ( Di chúc này bị Lê Duẩn dấu nhẹm , sau này được Bùi Tín kể lại trong hồi ký " Hoa xuyên Tuyết").
Trong những ngày tháng gần đây , Bác sĩ Nguyễn đan Quế từ trong nước gửi email ra hải ngoại cho biết " tình hình sẽ có nhiều biến động trong những ngày sắp tới. " Ông đã tiên đoán đúng vì tình hình Hòa Hảo vẫn đang sôi sục, cụ Lê quang Liêm cương quyết đối đầu với Cộng sản nếu Cộng sản không chấp nhận những yêu sách hành đạo của cụ. Chuyện Lý Tống rải 50000 tờ truyền đơn xuống Sài gòn ngày thứa sáu 17 tháng 11 năm 2000 trong khi Tổng Thống Clinton đang đọc diễn văn ở Hà Nội là một cú đánh " long trời lở đất " làm Cộng sản choáng váng , bàng hoàng. Rồi chuyện Linh mục Nguyễn văn Lý cùng các giáo dân ở Huế đứng lên sẽ càng làm cho giọt nước nổi dậy tràn đầy để biến thành một trận Đại hồng thủy cuốn trôi bộ máy cai trị của bạo quyền Cộng sản. Những chuyện này cũng đã nhà thơ Nguyễn chí Thiện tiên đoán trong bài trường thi " Đồng Lầy " viết năm 1972:
" Lũ lau gầy, sậy úa, cỏ tàn phai
Náo nức, reo hò, trông ngó
Âm thanh đó gây thành giông gió
Khắp đại dương cùng khổ âm u
Chớp xé trời đen, báo hiệu lũ quân thù
Giờ hủy thể !
Tôi mong mãi một tiếng gì như tiếng
ầm vang của bể
Đồng bào tôi cũng mong như thế
Tôi lắng nghe
Hình như tiếng đó đã bắt đầu...
.....
Ôi ghê sợ cả một trời phẫn nộ "
( Đồng lầy- 1972)
Ba mươi năm trước đây , nhà thơ Nguyễn chí Thiện đã tiên đoán đến ngày nổi dậy của nhân dân Việt Nam mà những biến động gần đây cho thấy là ngày ấy sắp đến. Nhà văn , nhà thơ bao giờ cũng là một con chim báo bão. Họ có khả năng đó vì trời sinh họ có một khả năng trực giác, mẫn cảm khác thường, hồn thiêng sông núi như tụ vào họ để rồi họ có những dự phóng cho tương lai đất nước bằng lời văn tiếng thơ. Nguyễn chí Thiện là một nhà thơ loại đó.
Người Việt Nam thường tin cái tên của một người là một định mệnh , nó vận vào người đó mà ảnh hưởng suốt cuộc đời, từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Tên của tác giả " Hoa địa ngục " là Chí Thiện ( có nghĩa là tận cùng của điều thiện) . Phải chăng trời đất sinh ông ra là đã muốn giao cho ông trách nhiệm và sứ mạng chống lại cái ác ( Ai cũng đồng ý là Cộng sản tượng trưng cho cái ác, phải nói là Cực ác mới đúng ). Đúng là " Chí thiện " đã chống với " Cực ác" bằng cả cuộc đời tù tội của mình và những tình hình sôi động gần đây đã cho thấy " Chí thiện " đang trên đà thắng lợi.
Cho đến giờ này Nguyễn chí Thiện gần như hoàn thành được sứ mạng của mình là đánh đổ cho được cái ác bằng những vần thơ bất hủ của ông. Tập thơ " Hoa địa ngục" là một tiếng thét phẫn nộ làm chấn động cả một dân tộc Việt Nam, có tác động làm cho mọi người đều tập hợp lại , rán công rán sức, tìm phương tính kế để đập vỡ đầu con rắn hồng vốn vẫn còn phun nọc độc làm cho quê hương điêu linh và giống nòi suy kiệt, tàn lụi. Gông cùm sẽ cởi bỏ khi con rắn hồng độc hại này bị đánh phọt óc. Nhân quyền, dân chủ sẽ đến khi con rắn hồng này yên giấc ngàn thu.
Từ lúc còn trong nước, Nguyễn chí Thiện đã tuyên bố là ông sẽ sống lâu hơn Đảng Cộng sản Việt Nam. Những tình thế rối ren hiện nay đang đến với Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy Đảng sẽ sụp đổ trong một ngày rất gần và Nguyễn chí Thiện sẽ hoàn thành nguyện ước của ông cũng như hàng triệu đồng bào của ông là nhìn thấy ngày con rắn hồng độc hại bị đánh toang đầu và tan rã trong sự nhục nhã trước sự đứng dậy của toàn dân đòi tự do, đòi quyền làm người và quyền tự chủ cho đất nước Việt Nam mến yêu.
Một ngày mai tươi sáng nhất định phải đến với quê hương Việt Nam. Chí Thiện dứt khoát trước sau gì cũng phải thắng Cực Ác (Cộng sản ), và tập thơ " Hoa địa ngục ", với hoàn cảnh lịch sử ra đời khá độc đáo, cũng như với những vần thơ bất hủ có tính nghệ thuật cao, chắc chắn tập thơ sẽ còn được truyền tụng và tồn tại mãi mãi đến muôn đời .
Lawndale, một đêm hiu quạnh đầu mùa thu tháng 9 năm 2002
Trần viết Đại Hưng
1)
Vũ thư Hiên chỉ nhớ mài mại, đúng là đây là bài thơ " Xưa Lý Bạch" có
nội dung như sau:
Xưa Lý Bạch ngửng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ quê hương
Nay tôi ngẩng đầu nhìn nhện giăng bụi bám
Cúi đầu giết rệp nhặt cơm vương
Lý Bạch rượu say gác lên bụng vua Đường
Tôi đói lả gác lên cùm rỉ xám
Lý Bạch sống đời độc tôn u ám
Phong kiến bạo tàn chưa có tự do
Tôi sống đời Cộng sản ấm no
Hạnh phúc tự do, thiên đường mặt đất
Rủi Lý Bạch, mà may tôi thật !
( 1967)
(2) Đúng ra, Nguyễn chí Thiện đến Mỹ vào tháng 11-1995.
(3) Nguyễn chí Thiện đến Mỹ 1995 chứ không phải ra đi trong khoảng 1993-1994 như Lm Lý đoán.
(4) Phụ lục
Xưa Lý Bạch ngửng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ quê hương
Nay tôi ngẩng đầu nhìn nhện giăng bụi bám
Cúi đầu giết rệp nhặt cơm vương
Lý Bạch rượu say gác lên bụng vua Đường
Tôi đói lả gác lên cùm rỉ xám
Lý Bạch sống đời độc tôn u ám
Phong kiến bạo tàn chưa có tự do
Tôi sống đời Cộng sản ấm no
Hạnh phúc tự do, thiên đường mặt đất
Rủi Lý Bạch, mà may tôi thật !
( 1967)
(2) Đúng ra, Nguyễn chí Thiện đến Mỹ vào tháng 11-1995.
(3) Nguyễn chí Thiện đến Mỹ 1995 chứ không phải ra đi trong khoảng 1993-1994 như Lm Lý đoán.
(4) Phụ lục
No comments:
Post a Comment