Được đăng ngày Thứ hai, 22 Tháng 10 2012 10:11
Từ gần ba năm qua nhiều người đã hy vọng
rằng đất nước đang chuyển động để ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc đồng thời
tăng cường quan hệ và tiến dần đến thế hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và các
nước dân chủ. Hy vọng này đang tan biến nhanh chóng từ vài tháng qua.
Nó phát sinh từ niềm tin là quan hệ Việt
Trung không thể tiếp tục như trước. Từ năm 2007 Trung Quốc đã tích lũy những
lộng hành trên Biển Đông. Bắn giết hay bắt và xử phạt ngư dân Việt Nam trước sự
bất lực của chính quyền cộng sản Việt Nam; lập huyện Tam Sa bao gồm các đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã đánh chiếm của Việt Nam; đơn phương tuyên bố
"quyền lợi cốt lõi" (nghĩa là quyền lợi phải bảo vệ bằng chiến tranh
nếu cần) trên một vùng lưỡi bò chiếm gần hết Biển Đông; ngang ngược cát dây cáp
của tầu nghiên cứu địa chấn Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam v.v. Những hành
động đó đã gây phẫn nộ lớn không chỉ trong quần chúng Việt Nam mà ngay cả trong
đa số đảng viên cộng sản, buộc những người cầm quyền phải phần nào chấp nhận để
những phẫn nộ đó được bộc lộ qua những cuộc biểu tình ở tầm vóc giới hạn, thí
dụ như trong dịp rước đuốc Thế Vận mùa hè 2008. Thêm vào những lộng hành của
Trung Quốc là những điều mà dư luận cho là chính quyền CSVN đã phải nhượng bộ
trước áp lực dù rất nguy hiểm cho Việt Nam như dự án khai thác bô-xit tại Tây
Nguyên, hay thỏa hiệp cho Trung Quốc thuê dài hạn nhiều khu rừng có vị trí
chiến lược. Những phản đối này được sự đồng tình của cả những cựu cán bộ cao
cấp lão thành, đôi khi được cả sự khuyến khích của một số lãnh đạo cao cấp muốn
gây khó khăn cho đối phương của mình trong cuộc tranh giành quyền lực. Tất cả
đóng góp tạo ra một phong trào đòi đối đầu với Trung Quốc thay vì nhượng bộ.
Mùa hè 2010 phong trào này đã đạt tới cao
điểm với hội nghị ASEAN tại Hà Nội trong đó ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
công khai phủ nhận những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, kể
cả Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường của Hoa Kỳ rõ ràng là bênh vực Việt Nam,
nó càng mạnh mẽ vì trước đó bà Clinton đã dõng dạc tuyên bố tại Bangkok là
"Hoa Kỳ đã trở lại Đông Nam Á".Thực ra người Mỹ không có nhu
cầu "trở lại" Đông Nam Á. Họ chưa hề ra đi và còn đang hiện diện rất
mạnh tại đây. "Trở lại Đông Nam Á" đối với Hoa Kỳ chỉ có nghĩa làtrở
lại Việt Nam. Tiếp theo là những tiếp xúc dồn dập với Hoa Kỳ và các nước
dân chủ, kể cả một cuộc viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Pháp Hervé Morin
với kết quả là thỏa hiệp theo đó Pháp sẽ cung cấp thiết bị và giúp đào tạo các
sĩ quan không quân và hải quân Việt Nam. Tàu sân bay George Washington đến thăm
cảng Đà Nẵng. Tháng 6 vừa qua cả ngoại trưởng lẫn bộ trưởng quốc phòng Mỹ tới
Việt Nam. Đó chỉ là một số trong nhiều sự kiện tạo ra niềm tin rằng Việt Nam
đang thay đổi chính sách đối ngoại. Sự chuyển hướng đột ngột của Miến Điện -
giữa một làn sóng dân chủ mới đang trào dâng trên khắp thế giới - lại càng làm
cho niềm tin này thêm mạnh mẽ.
Một chọn lựa hiển nhiên, hợp tình, hợp lý
Về mặt lý luận chọn lựa sáp lại với Hoa Kỳ
và ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc quá hiển nhiên. Việt Nam có rất nhiều điều -
văn hóa cũng như khoa học, kỹ thuật và phương pháp - để học hỏi ở Hoa Kỳ và các
nước phương Tây, hơn hẳn so với Trung Quốc; ngoại thương với Hoa Kỳ đem lại cho
nước ta một thặng dư lớn, 12,3 tỷ USD năm 2011, trong khi với Trung Quốc ta bị
thâm thủng 13,8 tỷ. Hai con số này khi đem so sánh với kết số thâm thủng 9,5 tỷ
USD của ngoại thương Việt Nam năm 2011 cho thấy quan hệ với Hoa Kỳ là một phúc
lợi lớn trong khi hợp tác với Trung Quốc là một thiệt hại nặng. Mặt khác Hoa Kỳ
là một cường quốc thương mại, hàng không và hàng hải, muốn tìm kiếm thị trường
và đối tác chứ không có văn hóa lấn chiếm như Trung Quốc. Dù có hợp tác chặt
chẽ với Hoa Kỳ đến đâu đi nữa cũng không sợ bị mất đất mất biển, trong khi
ngược lại Trung Quốc đã bày tỏ quá rõ ý đồ muốn làm chủ Biển Đông, mà Biển Đông
lại quá quan trọng đối với Việt Nam, mất Biển Đông thì Việt Nam sẽ không còn là
Việt Nam nữa. Hoa Kỳ cũng có thừa sức mạnh ngoại giao cũng như quân sự để bảo
vệ Việt Nam; một quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, vì thế, là điều kiện cần để có
thể sống chung hòa bình với Trung Quốc. Hàn Quốc và Đài Loan đã giữ được quan
hệ hòa bình và hợp tác với Trung Quốc nhờ sự che chở của Hoa Kỳ. Hàn Quốc giữ
được eo biển Hoàng Hải, Đài Loan giữ được các đảo Kim Môn và Mã Tổ chỉ cách lục
địa Trung Quốc vài cây số.
Sau cùng, nhưng cũng rất quan trọng, đối
với các chuyên gia thì dù chế độ CSVN có muốn tiếp tục dựa vào Trung Quốc để
tồn tại cũng không được nữa. Bối cảnh thế giới đã thay đổi, mô hình kinh tế
Trung Quốc sắp phá sản - có thể nó đã phá sản nhưng chưa được thú nhận - và nội
tình Trung Quốc cũng sắp bất ổn.
Chọn lựa này quá hợp tình hợp lý đến nỗi
người ta không thể tưởng tượng là chính quyền CSVN có thể ngoan cố tiếp tục một
thế lệ thuộc vừa nhục nhằn vừa tai hại.
Nguy cơ đã gần kề
Nhưng đó chính là mối nguy đã hiện rõ từ ba
tháng nay. Nó đang tới gần và chắc chắn sẽ tới nếu không gặp một chống đối
quyết liệt. Phải nhìn nhận rằng trong những năm vừa qua đã có nhiều dấu hiệu
đáng lo ngại mà nhiều người, trong đó có chính kẻ viết bài này, đã không đánh
giá đúng mức độ nghiêm trọng. Có thể nói từ năm 2009 trở đi, khi quyền lực của
Nguyễn Tấn Dũng trở thành mạnh đến nỗi lấn át cả đảng cộng sản, chính sách đàn
áp những người dân chủ đã thô bạo hẳn lên. Nguyễn Xuân Nghĩa bị xử 6 năm tù vì
treo biểu ngữ "Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam"; cô Phạm Thanh
Nghiên bị tù 4 năm chỉ vì ngồi phản kháng Trung Quốc tại nhà; Trần Huỳnh Duy
Thức 16 năm vì tham gia Đảng Dân Chủ và tố cáo Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng;
Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm và cô bạn gái Đỗ Thị Minh Hạnh 7 năm vì rải truyền
đơn nói lên tinh thần dân tộc vào dịp kỷ niệm một nghìn năm Thăng Long; Vi Đức
Hồi 5 năm và Cù Huy Hà Vũ 7 năm chỉ vì những bài viết ôn hòa. Trước đó những
trường hợp như vậy chỉ bị "làm việc" qua loa hoặc bị xử tối đa một
hai năm tù trong trường hợp thô bạo nhất. Sự gia tăng đàn áp này tự nó đủ để
chứng tỏ đảng cộng sản, hay ít nhất phe nắm quyền trong đảng, không có ý định
tiến lại gần Hoa Hỳ và các nước dân chủ, bởi vì nếu như thế phải ngừng, hoặc ít
nhất giảm mức độ đàn áp chứ không gia tăng một cách hung bạo.
Với những ai còn cố bám vào hy vọng một
chuyển hướng về phương Tây vụ án Câu Lạc Bộ Các Nhà Báo Tự Do đã là một cải
chính dứt khoát. Điếu Cày là trường hợp đầu tiên mà một tổng thống Mỹ nêu đích
danh một tù nhân chính trị Việt Nam để yêu cầu trả tự do. Cũng cần lưu ý là
Điếu Cày viết rất ít, anh chỉ bị bắt vì bị coi là người chủ chốt trong những
cuộc biểu tình chống ngọn Đuốc Thế Vận qua Việt Nam bởi vì ngọn đuốc này cũng
ghé Hoàng Sa và Trường Sa. Điếu Cày không có tội gì cả và đã ở tù bốn năm. Bản
án 12 năm tù cho Điếu Cày, và 10 năm cho Tạ Phong Tần, là một thách thức rất
ngạo mạn với Hoa Kỳ và tổng thống Obama. Phải thực sự cố tình muốn khiêu khích
Mỹ chính quyền CSVN mới hành động như thế. Phản ứng nhanh chóng của bộ ngoại
giao Mỹ và sứ quán Mỹ tại Việt Nam ngay sau bản án chứng tỏ tình cảm giữa hai
chính quyền không còn gì.
Họ đã quyết định xong và tuyên bố
Và rồi chọn lựa tiếp tục lệ thuộc Trung Quốc đã được
chính thức công bố qua cuộc phỏng vấn thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh ngày 17-9
vừa qua trên báo Quân Đội Nhân Dân. Cần lưu ý rằng trong các chế độ cộng sản những cuộc
phỏng vấn những người cầm quyền không bao giờ là sáng kiến của một tờ báo mà
luôn luôn do chính quyền chủ động; những cuộc phỏng vấn chỉ là phương tiện để
chính quyền công bố một chính sách nào đó. Cũng nên lưu ý là ông Vịnh tuy chỉ
là thứ trưởng nhưng là một trong những nhân vật có ảnh hưởng hàng đầu vì nắm
được Tổng Cục 2, vì được sự đỡ đầu của ông Lê Đức Anh và vì là một đồng minh
cột trụ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cũng là con đỡ đầu của ông Lê Đức Anh.
Những lời tuyên bố của ông Vịnh vì vậy phải được coi là lập trường của chính quyền
CSVN, hay ít nhất của phe Nguyễn Tấn Dũng đang có quyền lực áp đảo trong chế
độ.
Ông Vịnh đã phát biểu một cách rất rõ rệt. Ông nói
(nguyên văn):
-"Việt Nam không còn bất cứ băn khoăn
gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, giải quyết với Trung Quốc mọi
bất đồng, (…)trên cơ sở quan hệ hữu nghị giữa hai nước láng giềng XHCN".
-"Chúng ta luôn phải nhớ nằm lòng kim
chỉ nam“Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” mà Đảng ta và Bác Hồ đã chỉ ra, bảo
vệ vững chắc chế độ XHCN mới giữ được độc lập chủ quyền (…) nền tảng chính trị
đã đưa đến quan hệ hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc là định hướng
xã hội chủ nghĩa.Hai nước phải tin con đường Việt Nam và con đường Trung Quốc
đang đi là một CNXH đích thực, một CNXH độc lập, vững vàng, không thể bị chuyển
hóa bởi những yếu tố bên ngoài mặc dù chúng ta đang sống trong môi trường toàn
cầu hóa, hội nhập mạnh mẽ".
Không thể rõ ràng hơn. Nhưng ông Vịnh dựa
trên những yếu tố nào để quả quyết -"Việt Nam không còn bất cứ
băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực"?
Cần lưu ý là với hai tiếng "Việt
Nam" ông Vịnh đã nhấn mạnh ông không phát biểu với tư cách cá nhân, hay
thứ trưởng quốc phòng, mà phát biểu nhân danh chế độ. Như vậy việc Trung Quốc
tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa và "quyền lợi cốt lõi"
trên vùng lưỡi bò không còn là một băn khoăn cho chính quyền CSVN? Thực ra Việt
Nam phải rất băn khoăn, thậm chí vô cùng lo ngại, vì theo chính lời ông Vịnh
khi Việt Nam đề nghị Việt Nam và Trung Quốc cam kết không sử dụng vũ lực thì
phía Trung Quốc chỉ hứa sẽ "ghi nhận tích cực" chứ không chịu
cam kết, nghĩa làvẫn đánh nếu cần. Thật là ăn nói ngược ngạo.
Sự ngược ngạo còn đạt tới cùng độ khi ông Vịnh nhắc lại
một phương châm được gán cho "đảng ta" và "Bác Hồ": độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới hiện nay có gần hai trăm quốc gia độc lập
họ có cần tới chủ nghĩa xã hội đâu, không những thế đa số còn ghê tởm chủ nghĩa
cộng sản như một tội ác đối với loài người. Vả lại ngay cả nếu muốn bênh vực
chủ nghĩa Mác-Lênin thì cũng phải biết rằng chủ nghĩa này tự coi là một chủ
nghĩa quốc tế, nó phủ nhận vai trò của quốc gia, chưa nói quốc gia độc lập. Một
người cộng sản Việt Nam có thể coi một người cộng sản Nga, hay cộng sản Congo,
như anh em nhưng lại nhìn một người chống cộng Việt Nam như kẻ thù. Nguyễn Chí
Vịnh hoặc không biết gì về thế giới và chủ nghĩa cộng sản hoặc đã nói ngôn ngữ
của kẻ có bạo lực và bất chấp sự thực. Và phải hiểu thế nào lời tuyên bố:
"con đường Việt Nam và con đường Trung Quốc đang đi là một CNXH đích
thực, một CNXH độc lập, vững vàng, không thể bị chuyển hóa bởi những yếu tố bên
ngoài mặc dù chúng ta đang sống trong môi trường toàn cầu hóa, hội nhập mạnh
mẽ"? "Chủ nghĩa xã hội" chỉ là một cụm từ để chỉ chế độ độc
tài toàn trị, một cụm từ đã gắn liền -qua các danh xưng "Quốc gia Xã hội
Chủ nghĩa Đức" (Đức Quốc Xã) và "Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Xô Viết" (Liên Bang Xô Viết)- với những tội ác kinh khủng của
Hitler và Stalin mà cả nhân loại, kể cả hai dân tộc Đức và Nga đã cực lực lên
án. Theo Nguyễn Chí Vịnh đảng CSVN không những tiếp tục theo chủ nghĩa xã hội
mà còn khẳng định là theo một thứ chủ nghĩa xã hội đích thực và không
chuyển hóa. Đây là một lời tuyên chiến với dân tộc Việt Nam và với cả loài
người.
Nguyễn Chí Vịnh đã tiết lộ một sự kiện
nghiêm trọng đáng đặt toàn dân Việt Nam trong tình trạng báo động: những người
cầm quyền cộng sản đã chọn áp đặt đường lối tiếp tục thần phục Trung Quốc và
chống lại dân chủ. Quả nhiên họ đã chọn xong: hội nghị trung ương 6 vừa qua
không hề bàn tới chính sách đối ngoại. Nếu không có áp lực nào đủ nhanh và đủ
mạnh để buộc họ phải thay đổi thì đó sẽ là số phận của đất nước trong nhiều năm
sắp tới.
Ngõ cụt và đêm đen
Số phận đó sẽ như thế nào? Việt Nam sẽ cô
lập trong nanh vuốt của Trung Quốc bởi vì không ai bảo vệ một chế độ độc tài
hung bạo. Bài học lịch sử vẫn còn rất mới: năm 1988 khi Trung Quốc ngang nhiên
đánh chiếm Trường Sa của Việt Nam họ đã không bị ai phản đối. Sau này nếu Trung
Quốc chiếm nốt Trường Sa, khai thác dầu khí ngay trong lãnh hải Việt Nam và cấm
tầu Việt Nam đi lại cũng sẽ thế thôi, cùng lắm là một vài phản đối nguyên tắc.
Nên nhắc lại một lần nữa là nguy cơ vẫn còn nguyên vẹn. Trung Quốc hiện đang
mâu thuẫn lớn với Hoa Kỳ, Nhật và nhiều nước khác trong vùng Thái Bình Dương và
đang có nhu cầu hòa dịu với Việt Nam để đừng đẩy Việt Nam vào thế bắt buộc phải
sáp lại với Hoa Kỳ. Tuy vậy, theo lời của chính Nguyễn Chí Vịnh, Trung Quốc đã
không chịu cam kết sẽ không sử dụng vũ lực. Sau này chắc chắn họ sẽ sử dụng nếu
cần. Cuộc đụng độ nếu xảy ra sẽ bằng không quân và hải quân, những binh chủng
mà Việt Nam còn cần nhiều năm nữa để đào tạo ngay cả nếu có phương tiện tài
chính. Nếu cô lập với thế giới thì vũ khí duy nhất của chế độ CSVN sẽ chỉ là
van xin, nhưng van xin sẽ hoàn toàn vô ích vì Trung Quốc đã quyết tâm chiếm
trọn Biển Đông. Khả năng mất quyền lợi trên Biển Đông gần như chắc chắn. Cũng
phải nói thêm rằng ngay bây giờ Hoa Kỳ và Châu Âu đã thất vọng và ngày càng có
khuynh hướng coi Việt Nam như một pariah state, nghĩa là một nhà nước
mạt hạng không đáng quan tâm.
Trong ngắn hạn, khi chọn lựa tiếp tục làm
chư hầu Trung Quốc đã rõ, sự thất vọng này -cùng với sự xét lại bắt buộc do cuộc
khủng hoảng kinh tế - sẽ khiến các nguồn đầu tư từ các nước dân chủ cạn kiệt và
các thị trường tại các nước này trở nên rất khó khăn cho Việt Nam. Dễ hiểu,
Trung Quốc ngày càng bị mất cảm tình trên thế giới và bị nhìn như một mối đe
dọa, làm chư hầu Trung Quốc thì không thể mong được thiện cảm của thế giới.
Hiện tượng này trên thực tế đã bắt đầu rồi. Sự thất vọng còn đi đôi với phẫn nộ
vì chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp dân chủ một cách hung bạo ngay giữa lúc
một làn sóng dân chủ đang trào dâng mạnh mẽ và được sự cổ võ của cả thế giới.
Cả đầu tư nước ngoài lẫn xuất khẩu đều đã sút giảm một cách báo động và còn
đang tiếp tục sút giảm. Một cơ hội đã lỡ. Năm 2007, khi Việt Nam vừa gia nhập
WTO (Tổ Chức Thương Mại Thế Giới) nhiều người tin là Việt Nam đã bắt đầu tiến
trình hội nhập vào đà tiến chung của thế giới và khối lượng đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam đã tăng vọt, lớn hơn tổng số đầu tư nước ngoài vào tất cả các nước
trong vùng. Các quan chức Việt Nam đã thẳng tay vơ vét, khi không lãng phí và
sai lầm vì thiếu khả năng. Ngày nay, ngoại trừ những dự án bắt buộc phải tiếp
tục vì đã đi khá xa, không còn ai đầu tư vào Việt Nam nữa. Sản xuất và xuất
khẩu cũng sút giảm nghiêm trọng. Nợ công của Việt Nam không phải là 70 tỷ USD
như chính quyền nhìn nhận mà có thể gấp đôi. Các tập đoàn kinh tế nhà nước lỗ
năng và nợ trên 50 tỷ USD. Ủy ban tài chính quốc hội ước lượng Việt Nam cần
ngay 12 tỷ USD để đương đầu với những chi tiêu khẩn cấp, trước khi cần vay thêm
nhiều nữa. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế sẽ không cho vay vì Việt Nam không đủ tiêu
chuẩn. Hoa Kỳ và các nước dân chủ sẽ không cho vay vì chính quyền Việt Nam đàn
áp nhân quyền. Trung Quốc sẽ cho vay nhỏ giọt nhưng với cái giá phải trả là cúi
đầu thấp hơn nữa và nhượng bộ nhiều hơn nữa trên Biển Đông. Việt Nam đang ở trong
một tình trạng kinh tế rất hiểm nghèo và có thể sụp đổ nếu mất đi sự hợp tác
với các nước dân chủ bởi vì hai thị trường lớn nhất của Việt Nam là Châu Âu và
Hoa Kỳ, kế tiếp là Nhật, trong khi Trung Quốc không phải là một thị trường mà
còn là một thâm thủng lớn. Chọn lựa của ĐCSVN không phải chỉ đe dọa chủ quyền
đất nước trong trung hạn mà trước mắt còn có nguy cơ làm sụp đổ sinh hoạt kinh
tế và dìm đất nước trong cảnh nghèo đói. Một vòng xoắn oan nghiệt đang chờ đợi
chúng ta: càng suy yếu và cô lập càng lệ thuộc Trung Quốc nhưng càng lệ thuộc
Trung Quốc lại càng bị cô lập và suy yếu thêm.
Đó là tương lai mà ĐCSVN đang hứa hẹn cho
đất nước. Ngõ cụt và đêm đen.
Trách nhiệm về ai?
Giữa thập niên 1980, ngay sau khi mới vừa
huênh hoang khoe chiến công oanh liệt và trong lúc Trung Quốc còn đang lấn
chiếm, ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chọn quỳ xuống và cúi đầu để giữ
nguyên ách toàn trị của họ trên dân tộc. Và họ đã không gặp một phản ứng đáng
kể nào. Các thế hệ mai sau khi đánh giá cha anh họ sẽ rất băn khoăn giữa u mê
và hèn nhát. Ngày hôm nay, ngay giữa một làn sóng dân chủ mới đang dâng tràn
trên khắp thế giới, ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam quyết định quay lưng lại với
dân chủ, đàn áp thô bạo những đòi hỏi nhân quyền chính đáng và tái khẳng định
quan hệ lệ thuộc đối với chế độ cộng sản Trung Quốc. Ngày trước cũng như bây
giờ chính sách đối ngoại hoàn toàn được quyết định bởi những người thiếu văn
hóa và thiếu hiểu biết về thế giới, các nhà ngoại giao đều bị biên tế hóa.
Trách nhiệm về ai? Phải nhận định một điều là dù những người lãnh đạo cộng sản
chóp bu đang đấu đá nhau gay gắt nhưng không có bất cứ một ai trong họ tỏ ý
phiền lòng vì những những vụ án chính trị thô bạo, không một ai bác bỏ những
lời tuyên bố của Nguyễn Chí Vịnh, không một ai hé lộ một cảm tình nào đối với
dân chủ hay một bực bội nào trước những lộng hành của Bắc Kinh. Họ xung đột với
nhau về quyền lực và quyền lợi nhưng họ giống nhau trong lập trường đối với
Trung Quốc. Họ đều có trách nhiệm, nhưng Nguyễn Tấn Dũng là người có nhiều quyền
lực nhất trong bảy năm qua nên Nguyễn Tấn Dũng cũng là người chịu trách nhiệm
nặng nhất. Nguyễn Tấn Dũng ra đi chưa chắc đất nước đã thoát hiểm, nhưng nếu
Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục cầm quyền chắc chắn đất nước sẽ lâm nguy.
Khẩn trương
Chúng ta đã hiểu quá rõ những người cầm đầu
đảng cộng sản. Không thể hy vọng gì nơi họ. Bao giờ họ cũng đặt chủ nghĩa xã
hội lên trên quyền lợi của dân tộc, dù chủ nghĩa xã hội đã trở thành vô nghĩa
và chỉ còn là cái cớ để duy trì ách độc tài toàn trị mà họ áp đặt lên dân tộc.
Họ đang định kéo dân tộc vào một thảm kịch mới. Đất nước đang cần một phản ứng
mạnh mẽ và quả quyết để thoát hiểm. Tình hình khẩn trương này đòi hỏi ở dân tộc
Việt Nam, trước hết là trí thức Việt Nam, một sức bật mới của ý chí và lòng yêu
nước. Phải làm gì là một câu hỏi cần được thảo luận. Điều chắc chắn là lúc này
mọi người Việt Nam yêu nước và lương thiện, dù ở cương vị nào, dù là cựu tù
nhân chính trị hay sĩ quan công an, phải chung sức với nhau, sau khi hòa giải
với nhau nếu cần, trong một cố gắng cứu nước chung. Ngược lại mọi thái độ cầu
an cố tình không nhìn thấy mối nguy lớn cho đất nước đều phải bị lên án thật
dứt khoát.
Nguyễn Gia Kiểng
(10/2012)
(10/2012)
No comments:
Post a Comment