01:43:am 04/10/12
Từ khi có đảng cộng sản xuất hiện và cướp chính quyền,
những người Việt Nam yêu nước và lương thiện hầu như không có chỗ đứng trên đất
nước.
Lẽ
phải và sự thật lịch sử theo đà phát triển của lực lượng cộng sản ngày càng bị
khuynh đảo, bôi xóa, tiếm đoạt để chỉ còn thứ lịch sử của đảng cộng sản làm ra.
Thảm hại hơn là trong lúc đó vì ảnh hưởng tuyên truyền của cộng sản và mặt
khác, một nhóm người vì muốn đem lại chánh nghĩa cho việc truất phế Vua Bảo Đại
với khẩu hiệu ” bài phong đả thực “, đã làm cho những người Việt Nam không cộng
sản quên hoặc phủ nhận một số sự kiện lịch sử, điều này dỉ nhiên, đã góp thêm
phần củng cố ” tính tất yếu lịch sử ” cho vai trò của cộng sản cướp chánh quyền
để làm cộng sản trên cả nước.
Trong những cái quên đó, có thể kể ra hai cái quên hay
phủ nhận cực kỳ thảm hại cho lịch sử dân tộc, đó là Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày
11 tháng 3 năm 1945 và Chiếu Thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945 tại Ngọ môn đài
của Hoàng Đế Bảo Đại.
Ý nghĩa của hai văn kiện lịch sử này rất đáng được trân trọng vì giá trị lịch
sử to lớn của nó.
Nay,
sau khi cái ồn ào rỗng tuếch về ngày “Lễ Độc lập 2 tháng 9 ” ở Hà nội đã lắng
đọng, chúng tôi muốn nhắc lại Chiếu Thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại .
Đại
Hiến chương Anh
Người
ta biết qua “Đại Hiến chương của Anh”, tức “La Grande Charte” hay “Magna Carta
Libertatum” như một sự kiện quan trọng về quyền lợi của dân được nhà vua tôn
trọng.
Khái
niệm khởi đầu cho chế độ pháp trị ở Âu châu. Nhưng thật ra, dân ở đây chưa phải
là người dân tay lấm chân bùn, thợ thuyền lao động như ngày nay ta biết, mà là
tấng lớp chư hầu của nhà vua. Tức các ông Hoàng bà Chúa, những nhà quí tộc.
Những người này mới được gọi là thần dân và mới có tài sản.
Đại
Hiến chương là một bản văn gồm 63 điều do tầng lớp chư hầu tranh thủ được ở nhà
vua “Jean sans Terre” ngày 15 tháng 6 năm 1215 sau một cuộc nội chiến ngắn,
quân phiến loạn chiếm lấy được thành phố Luân-đôn. Các chư hầu bất mãn những
đòi hỏi thái quá của nhà vua về nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ tài chánh.
Bản
“Đại Hiến chương về những quyền Tự do của Anh” bảo đảm quyền tự do cá nhân. Nó
giới hạn sự chuyên quyền của nhà vua và thiết lập quyền an ninh nhân thân thành
luật để ngăn cản sự bắt bớ bỏ tù một cách tùy tiện. Bản văn thiết lập sự kiểm
soát thuế vụ do Đại Hội đồng của Triều đình đảm trách.
Đại
Hiến chương được làm mới lại suốt thời Trung cổ và qua suốt hai thế kỷ XVII và
XVIII. Tới đầu thế kỷ XIX, một số điều khoản được hủy bỏ trong luật của Anh.
Ảnh
hưởng của Đại Hiến chương ra ngoài nước Anh, có thể nhận thấy ở bản Hiến pháp
Huê kỳ và bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền.
Hiến
pháp của các quốc gia theo “common law ” đều chịu ảnh hưởng Đại Hiến chương nên
bản văn do đó trở thành một tài liệu về luật pháp quan trọng hơn hết trong lịch
sử dân chủ ngày nay. Nhứt là nó đánh dấu một Nhà nước chuyên chế bước qua một
Nhà nước pháp trị chỉ do quyền hạn của nhà vua bị giới hạn.
Về
tầm vóc, bản Đại Hiến chương chỉ giới hạn quyền lực của nhà vua để nhờ đó những
quyền lợi của lớp chư hầu được tôn trọng mà trở thành một bản văn lịch sử mở ra
chế độ dân chủ Âu châu. Tính vĩ đại của bản văn không ở tự thân của bản văn mà
do con người đã biết đánh giá bản văn, biết khai thác giá trị bản văn và biết
đề cao và bảo vệ nó, trân quí nó.
Chiếu
thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại
Về
tầm vóc, có thể nói Chiếu thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại lớn hơn nhiều. Ngài
đánh đổi ngai vàng gần 400 năm của Triều Nguyễn với tư cách “Công dân một nước
Độc lập”. Và Ngài làm Công dân cho tới ngày cuối đời, kể cả lúc trở lại Chánh
quyền thành lập “Quốc gia Việt Nam”.
Có
giá trị lớn về sự mất mát và tinh thần chấm dứt chế độ quân chủ để thật sự mở
ra một đất nước Độc lập, Dân chủ .
Nhựt
đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9.3.1945. Bảo Đại tiếp thu nền độc lập của
Viêt Nam từ Nhựt với nhận định chính đáng: “Trước kia nước Pháp giữ quyền
bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy
những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã
tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ
để đối phó mọi việc ” (Le Dragon d’Annam, Plon, Paris, 1980), tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước bất bình đẳng
đã ký với Pháp trước đây và thành lập Chánh phủ Trần Trọng Kim ngày 16.4.1945
để thể hiện một Việt Nam độc lập.
Nhựt
hoàng đầu hàng vô điều kiện ngày 15.8.1945, Thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức.
Hai hôm sau, ngày 17 tháng 8, Việt Minh biến cuộc biểu tình của 20.000 người
được Tổng hội Công chức phát động trước Nhà Hát Lớn Hà Nội để ủng hộ Chính phủ
Trần Trọng Kim thành một cuộc biểu tình tuần hành đòi Độc lập. Lần đầu tiên lá
cờ đỏ sao vàng xuất hiện, với vài tên cộng sản cầm súng bắn chí choét chỉ
thiên. Thế là ngày 19 tháng 8,Việt Minh huênh hoang tuyên bố cướp chính quyền
trong một “cuộc binh biến” mà chúng gọi là “Cách Mạng Tháng Tám”, “Cách mạng
mùa Thu” hay “Tổng Khởi Nghĩa”.
Vua Bảo Đại công bố ngày 25 tháng 8 năm 1945 Chiếu thoái
vị, chính thức chấm dứt Nhà Nguyễn và
chế độ quân chủ ở Việt Nam. Bản Tuyên ngôn được vua Bảo Đại soạn với sự trợ giúp
của hoàng thân Vĩnh Cẩn trong đêm 22 tháng 8, 1945 tại điện Kiến Trung, hoàng
thành Huế. Sáng hôm sau, khi đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận
đến cung điện để tiếp thu bàn giao, lúc đầu Bảo Đại đưa bản Tuyên ngôn cho Trần
Huy Liệu.
Nhưng
Trần Huy Liệu hội ý với Cù Huy Cận và tâu với Bảo Đại rằng:
“Thưa
Hoàng thượng, nhân danh dân tộc Việt Nam, chúng tôi nhận bản văn này rất nhẹ
nhàng, không câu nệ. Nhưng, chúng tôi kính xin Hoàng thượng cho tổ chức một
buổi lễ vắn tắt, trong đó xin Hoàng thượng công khai tuyên bố cho mọi người
biết.”
Theo
lời yêu cầu của Trần Huy Liệu, Đại diện Chánh phủ Dân chủ Cộng hòa ở Hà Nội,
chiều ngày 25 tháng 8, 1945, Bảo Đại mặc trào phục và đọc bản Tuyên ngôn Thoái
vị trước hàng ngàn người tụ họp vội vã trước cửa Ngọ Môn (sđd), như sau:
Bảo
Đại- Vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam
Vì
hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,
Vì nền độc lập của Việt Nam,
Vì nền độc lập của Việt Nam,
Để
đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước mong rằng sự
hy sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
Nhận
định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự
cần thiết cho Tổ quốc chúng ta, ngày 23 tháng 8, Trẫm đã nhắc lại cho toàn thể
nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là
sống, mà chia rẽ là chết.
Chiếu
đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh
chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu
dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa
cả nước vào sau hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng.
Trẫm
không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm
năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không khỏi tiếc hận là
trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại lợi ích đáng kể cho
đất nước.
Mặc
dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm đã quyết định thoái vị,
và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa.
Trước
khi từ giã ngai vàng, Trẫm chỉ có ba điều muốn nói:
–Thứ
nhứt: Trẫm yêu cầu tân chính phủ phải giữ gìn lăng tẩm và miếu mạo của hoàng
gia.
–Thứ
hai: Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các
phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không
theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được
tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây
dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
–Thứ
ba: Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội
cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện
cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia.
Riêng
về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng.
Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị.
Từ
nay Trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập. Trẫm
không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia
để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta.
Việt
Nam độc lập muôn năm,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm,
Huế, điện Kiến Trung ngày 25 tháng 8 năm 1945.
Theo hồi ký của Bảo Đại (sđd), bản tuyên ngôn được đọc trong sự yên lặng hoàn toàn. Mọi người có mặt trong buổi lễ đều ngẩn ngơ, bàng hoàng:
“Tôi
quan sát các khán giả hàng đầu. Tất cả các vẻ mặt đều tỏ vẻ ngạc nhiên cùng
cực. Nam và nữ đều ngẩn ngơ. Bản tuyên ngôn thoái vị của tôi như tiếng sét đánh
xuống ngang đầu họ. Họ lặng người đi.
Trong
một bầu không khí bực dọc, tôi trao nhanh ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho
Trần Huy Liệu, mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây rơi xuống.
Trong khi tôi hồi cung, đám đông tan rã, không một tiếng kêu”.
Thế
mà Nguyễn Minh Triết trong Lễ 2/9/2010 dám tuyên bố: “Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần
đấu tranh quật cường của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng; là sự lựa chọn của chính nhân dân dân Việt Nam của lịch sử
dân tộc Việt Nam …”.
Lực lượng võ trang của Hồ Chí Minh lúc đó được mấy ngoe, đánh với ai? Nên nói lại cho rõ ” Hồ Chí Minh chỉ cướp Chánh quyền của Chánh phủ Trần Trọng Kim sau khi Cụ từ nhiệm”. Tức Việt minh vào ngôi nhà, cửa đã mở sẳn mà chụp lấy đồ đạc.
Qua
Chiếu thoái vị, ai cũng thấy Hoàng Đế Bảo Đại quả thật là người yêu nước và
lương thiện. Suốt thời gian ở ngai vàng và qua làm Quốc trưởng, Ngài giữ được
hai bàn tay không vấy máu của dân. Nên Ngài mất thanh thản với tuổi thọ 84, an
táng ở Paris.
Phái
đoàn Đại diện Chánh phủ Hồ Chí Minh ở Hà Nội, qua cách tiếp nhận Chiếu thoái vị
ở Hoàng Đế Bảo Đại, mặc nhiên đã long trọng cam kết chấp hành những yêu cầu của
Hoàng Đế. Nhưng họ đã lật lọng. Vì người cộng sản chỉ có mục tiêu, chớ không có
vấn đề đạo đức lương thiện. Mục tiêu của họ là cướp giựt Chánh quyền cho bằng
được để thực thi chế độ cộng sản mà Hồ Chí Minh đã nhận lãnh vai trò ở Staline
và Mao-trạch-đông.
Nhưng
người Việt Nam chân chính, lương thiện, tức không cộng sản, phải biết trân quí
bản văn thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại vì giá trị to lớn lịch sử dân tộc. Lịch
sử không có dối trá. Lịch sử là công bằng.
©
Nguyễn Văn Trần
©
Đàn Chim Việt
-----------------------------------------------
Đọc thêm :
Phạm Cao Dương
Phạm
Cao Dương
No comments:
Post a Comment