Marianne Brown
Người dịch: Dương Lệ Chi
Posted by basamnews
on 21/06/2012
BTV: Nhân ngày Báo chí
Cách mạng Việt Nam, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả bài viết của bà
Marianne Brown, nói về công lao đóng góp của các blogger, giúp thay đổi việc
chuyển tải thông tin của các cơ quan truyền thông trong nước như thế nào. Các
blogger, những nhà báo mạng, những người được mệnh danh “ăn cơm nhà vác ngà
voi”, mặc dù không được lãnh lương, không được cấp kinh phí, không được chính
thức trao quyền tác nghiệp, thế nhưng tiếng nói của các blogger đã góp phần
không nhỏ trong việc cải thiện thông tin của báo chí nước nhà.
Việc viết blog, đưa tin của các blogger với tinh thần
trách nhiệm, đứng về quyền lợi của người dân, bênh vực những người cô thế, giúp
đỡ những hoàn cảnh khó khăn, mặc dù không được đảng và nhà nước vinh danh, khen
ngợi, nhưng các blogger thật sự trở thành nơi tin tưởng, gửi gắm, không những
cho người dân, mà còn là nơi để các quan chức chính quyền địa
phương nhớ tới, khi cần được giúp đỡ. Xin mọi người hãy cùng vinh
danh các blogger, các nhà báo mạng, những nhà báo công dân, những “chiến sĩ
thông tin”, đã âm thầm, lặng lẽ làm việc trong thời gian qua và trong tương lai
sau này.
———–
Giới blogger Việt Nam đang ngày càng thúc
đẩy việc đưa tin trong nước. Tin tức mạnh mẽ hơn sẽ tốt cho sự phát triển ở
Việt Nam.
Khi lực lượng an ninh cố đuổi một gia đình
nông dân nuôi cá khỏi mảnh đất của họ ở huyện Tiên Lãng, miền bắc Việt Nam, họ không nghĩ sẽ bị đáp trả lại
bằng súng đạn và mìn. Trận chiến sau đó đã kết thúc với sáu viên
công an vào bệnh viện và bốn người đàn ông bị buộc tội âm mưu giết người.
Vụ việc này đã bùng nổ ở nhiều mức độ khác
nhau. Trong một hành động hiếm hoi ở một đất nước mà tin tức bị chính phủ kiểm
duyệt nghiêm ngặt, các phóng viên được phép điều tra kỹ lưỡng sự việc này. Thật
vậy, một cựu viên chức ngoại giao phương Tây cho biết, lúc đó ông không hề thấy
các phương tiện truyền thông trong nước đưa tin về câu chuyện này với cùng
chiều sâu như các blogger.
Dần dà, càng có nhiều chi tiết hơn được đưa
ra ánh sáng, tiết lộ nguyên nhân sự việc là do chính quyền địa phương đã không
giữ lời hứa, cũng như sự điều hành yếu kém của họ. Một số quan chức đã bị xử lý
kỷ luật do sự tham gia của họ.
Việc đưa tin tức như vậy là rất bất thường
ở Việt Nam, đất nước được xếp hạng 172 trên tổng số 179 nước về chỉ
số tự do báo chí năm 2011-2012 của tổ chức Phóng viên Không biên Giới.
Các biên tập viên phải gặp Bộ Truyền thông vào thứ Ba hàng tuần để được “hướng
dẫn” những điều có thể và không thể đưa tin. Mặc dù có một số tờ báo đi xa hơn
những báo khác trong việc đưa tin về các vấn đề về tham nhũng, nhưng chuyện tự
kiểm duyệt là phổ biến. Do đó, sự kiện [Tiên Lãng] đã làm cho một số người hy
vọng rằng mọi thứ có thể thay đổi, nhưng chỉ vài tháng sau đó, vào ngày 24
tháng 4, một cuộc phản kháng khác ở tỉnh Hưng Yên, ngoại ô Hà Nội, đã cho thấy
bằng chứng ngược lại.
Hình ảnh hàng trăm cảnh sát được trang bị dụng cụ chống bạo động
đối mặt với người dân Văn Giang đã được đăng tải trên blog, lan truyền ngay lập
tức. Những người phản đối yêu cầu được bồi thường cao hơn cho mảnh đất đã bị
chính quyền địa phương lấy để xây một thành phố vệ tinh ở vùng ngoại ô Hà Nội.
Nhưng bất chấp những tin tức nóng bỏng, báo chí địa phương vẫn im bặt.
Một tổ chức phi chính phủ, Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Phát triển
(Red Communication), hoạt động nhằm nâng cao chất lượng báo chí ở Việt Nam.
Giám đốc Trần Nhật Minh cho biết, các phóng viên không có được tự do để đưa tin
về các cuộc phản kháng ở Văn Giang như họ đã có ở Tiên Lãng.
Ông nói: “Trước đó, các nhà chức trách
Văn Giang đã tổ chức một cuộc họp báo. Chính quyền địa phương yêu cầu các phóng
viên đưa tin về câu chuyện này theo tài liệu của họ (chính quyền) và không được
đến hiện trường vì lý do an toàn“.
Trong vài tuần sau đó, một số thông tin
được lọc qua. Tuy nhiên, khi hai người đàn ông xuất hiện trong video bị công an
ở chỗ phản kháng (Văn Giang) đánh đập, được nhận diện là các nhà báo của một đài
phát thanh nhà nước, sự cố này bắt đầu trở thành tiêu đề của các bài báo.
Một nhà báo Việt Nam, Nguyễn Thị Hung* cho
biết: “Sự kiện Văn Giang cho thấy, chính phủ đã thất bại trong việc bịt
miệng các phương tiện truyền thông trong nước. Đã có lệnh là không đưa tin về
vụ việc này, nhưng chuyện hai phóng viên của Đài Tiếng nói Việt Nam bị đánh đập
là cái cớ để mọi người đưa tin về sự việc đó“.
Việc đưa tin về cuộc tấn công kéo dài
khoảng một tuần, và đã không đi sâu vào các chi tiết về những lý do đằng sau
cuộc phản kháng [của người dân]. Nhưng mặc dù tin tức về trường hợp Văn Giang
đã bị kềm chế, giám đốc Minh nói rằng chuyện thay đổi không phải là viễn vông
(**). Ông nói: “Tình hình hiện nay không giống như vài năm trước đây. Trước
kia, nếu có một dự án mà nhà nước phải lấy đất của dân, thì các nhà báo chỉ có
thể đưa tin từ quan điểm của nhà nước“.
Ông nói rằng, các cuộc biểu tình phản đối
tịch thu đất là phổ biến và đã diễn ra trong thời gian dài, nhưng báo chí hiếm
khi nói tới. Thường chỉ có [người dân] trực tiếp ở địa phương đó quan tâm,
nhưng đa số độc giả sống ở các thành phố, nên đơn giản là hầu hết các tổ chức
thông tin không quan tâm đến các vấn đề của nông dân.
Tuy nhiên, cuộc chiến giữa những người nông
dân và các nhà chức trách ở Tiên Lãng đã thay đổi điều đó. Trước tiên, độc giả
bị thu hút do mức độ bạo lực, và rồi sau đó độc giả kinh hoàng trước mức độ
điều hành yếu kém của các cơ quan có thẩm quyền.
Ông Minh cho biết: “không gian cho các cuộc
biểu tình [chống tịch thu] đất đai trên báo chí hiện nay lớn hơn nhờ sự việc
Tiên Lãng”. Ông nói thêm rằng, sự kiện này đã làm cho vấn đề “nóng”, có nghĩa
là sẽ có nhiều trường hợp như thế sẽ được đưa tin.
Đại sứ Anh ở Việt Nam nói, việc đưa tin như
thế, nếu thành hiện thực, cũng có thể giúp thúc đẩy nỗ lực phát triển cho Việt
Nam.
Anh quốc là nước tài trợ hàng đầu
về chống tham nhũng ở Việt Nam, cũng như tài trợ các chương trình đào tạo cho
truyền thông trong nước. Đại sứ Antony Stokes cho biết, vai trò của truyền
thông là đưa thông tin ra ánh sáng một cách chuyên nghiệp và độc lập. Đây là
điều cơ bản trong đấu tranh chống tham nhũng.
Ông nói: “Có một chút thách thức và
chúng tôi muốn làm việc với chính phủ Việt Nam để giải quyết thách thức đó“.
Ông Stokes nói rằng, ông hy vọng sẽ giúp
các phương tiện truyền thông tự do hơn, không bị các ảnh hưởng chính trị, điều
này sẽ giúp thúc đẩy phát triển.
Ông nói thêm: “Các phương tiện truyền
thông có thể đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định các cá nhân tham
nhũng. Tuy nhiên, có khả năng là các cá nhân cảm thấy bị đe dọa bởi điều này“.
Phạm Văn Linh*, hiện làm việc cho một tờ
báo Việt Nam, cho biết, ông tin rằng hệ thống kiểm duyệt không thay đổi và thậm
chí có thể trở nên nghiêm ngặt hơn.
Linh nói: “Tin tức phụ thuộc vào các nhóm
lợi ích của chính phủ và những người mà các biên tập viên nhận được sự hỗ trợ
từ [họ]“. Ông tin rằng chính phủ hạn chế các phương tiện truyền thông bởi vì họ
sợ mất kiểm soát ý kiến của công chúng.
Ông nói: “Nếu chính quyền mất kiểm soát
thì chế độ sẽ mất“.
Nhà báo [Nguyễn Thị] Hung nói, cô nghĩ rằng
hạn chế vẫn còn nằm trong từng trường hợp cụ thể, nhưng lực lượng thực sự cần
cho sự thay đổi là viết blog. Điều thú vị trong sự kiện Văn Giang là nó đã được
kích hoạt gần như toàn bộ, nhờ quy mô đưa tin của các blogger.
Cô nói: “Blog đang thúc đẩy việc đưa tin
trong nước bằng cách đưa thêm nhiều thông tin hơn vào các diễn đàn công cộng.
Chính phủ không thể đảo ngược các thông tin đã công bố trên internet“.
Một số phóng viên tiếp cận các hạn chế bằng
cách viết blog dưới bút danh. Tuy nhiên, ảnh hưởng gia tăng của dạng truyền
thông này đã không được chính phủ bỏ qua. Nội dung trên các blog ngày càng được
sử dụng trong các bản cáo trạng ở tòa án mà có thể kết thúc bằng các bản án tù.
Blogger Lê Đức Thích* cho biết, anh thường
xuyên bị cảnh sát đi theo và công việc của anh bị giám sát chặt chẽ. Anh nói:
“Họ cố gây áp lực để tôi không viết về các vấn đề nhạy cảm”. Cũng đã có các tin
tức cho biết, blogger Nguyễn Xuân Diện ở Hà Nội, là một trong những người đầu
tiên loan tin về các cuộc biểu tình ở Văn Giang, đã bị sách nhiễu và buộc phải
đóng blog của anh.
Theo một số nhà phân tích, luật pháp Việt
Nam có thể phục vụ cho việc đàn áp hoặc nuôi dưỡng sự phát triển chất lượng báo
chí. Một tài liệu của phía lập pháp đã làm dấy lên mối quan ngại trong cộng
đồng quốc tế là dự thảo Nghị định về sử dụng
internet, trong đó dự kiến sẽ được phát hành trong tháng này.
Đại sứ quán Mỹ ở Việt Nam đã đưa ra ý kiến riêng về dự thảo trong một bức thư
gửi cho chính phủ Việt Nam, công bố hôm thứ năm ngày 7 tháng 6. Nghị định có
thể buộc những người sử dụng internet đăng ký sử dụng với tên thật và bắt buộc
các trang tin tức phải được sự chấp thuận của chính phủ trước khi đăng tải.
Đại Sứ quán [Mỹ] cho biết, các quy định về hành vi bị cấm
trên internet là “quá
bao la và mơ hồ, và do đó có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến các quyền cá nhân về
tự do ngôn luận ở Việt Nam“.
Tuy nhiên, không phải ai cũng bi quan về
các quyền của nhà báo và của các blogger ở Việt Nam. Ông Minh, Giám đốc Red
Communication nói rằng, có những quy định của luật pháp hiện hành có thể giúp
cải thiện việc đưa tin, nhưng hiếm khi được thực hiện. Ông nói, theo điều 6 và
điều 8 của Nghị định 02, “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo
chí và xuất bản“, các nhà báo có quyền không bị cản trở, và các
cơ quan chính phủ có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho họ.
Ông Minh nói: “Sau sự kiện Hưng Yên, Chủ
tịch Hội Nhà báo Việt Nam nói rằng, chúng ta nên chờ xem các phóng viên có hành
động đúng theo quy định của pháp luật hay không. Nhưng điều này là sai. Theo
quy định của pháp luật, các phóng viên được phép tác nghiệp ở tất cả mọi nơi
trong lãnh thổ Việt Nam, nên họ có mặt ở đó là đúng“.
Trong khi viết blog giúp thúc đẩy việc đưa
tin lên các mức độ mới, ông Minh nói rằng mọi người sẽ đưa tin nhiều hơn khi họ
biết các quyền của họ.
Ông nói: “Khi các nhà báo hiểu luật
pháp, họ sẽ tự tin hơn và họ sẽ ít tự kiểm duyệt hơn“.
Tác giả: Bà Marianne
Brown là phóng viên cho báo DPA – Deutsche Presse-Agentur (báo Đức), chi nhánh
Hà Nội. Bà cũng có các bài viết ở báo Guardian và VOA News,
ngoài các tờ báo khác.
* Tên đã được đổi để tránh bị nhận diện.
————–
(**) Ghi chú của BTV: Dựa vào ngữ cảnh của đoạn văn, có
lẽ câu này phải là “change is not in the air.”
Nguồn: The Diplomat
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
No comments:
Post a Comment