03:50:pm 26/04/12
Tôi
sinh trưởng sau năm 1975 và gia đình tôi không có liên quan gì nhiều đến cả hai
phía trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì thế mối tương quan tình cảm của tôi với
những sự kiện lịch sử và hoàn cảnh chính trị xã hội trong cuộc chiến hầu như
rất ít nếu không muốn nói là không có. Những gì ít ỏi mà tôi được hiểu biết về
nó chỉ đơn thuần là kiến thức. Đứng trong vị thế đó, tôi tạm thời có thể yên
tâm rằng lập trường của tôi, và những gì tôi nói ra sau đây sẽ được hiểu một
cách thiện chí và không bị gán ghép hay chụp mũ. Tôi không sợ bị chụp mũ, nhưng
thiết nghĩ điều đó cùng với những nguỵ biện không có lợi cho sự tiến bộ.
Gần
đây, tôi tình cờ đọc được một nhận xét của tướng William Childs Westmoreland-
Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam- về tướng Võ Nguyên
Giáp của quân đội Bắc Việt như sau: “Of
course, he was a formidable adversary…. By his own admission, by early 1969, I
think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a
disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make
a military genius…”. Xin được tạm dịch là: “Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ
thù) ghê gớm….Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ,
ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi
thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng
nó không tạo nên một thiên tài quân sự….”
Dù
chúng ta là ai, đứng bên nào của cuộc chiến, chúng ta cũng phải đồng ý với
Westmoreland rằng, một chiến thắng quân sự dựa trên chiến thuật đẫm máu, coi
thường sinh mạng binh sĩ chỉ có thể tạo nên một kẻ thù nguy hiểm chứ không tạo
nên một thiên tài quân sự như nhiều người vẫn rêu rao. Câu nói này của viên
tướng Hoa Kỳ làm tôi suy nghĩ rất nhiều về sự “nguy hiểm” của những người Cộng
sản Việt Nam. Họ nguy hiểm bởi họ là những người luôn hành động theo phương
châm “mục đích biện minh cho phương tiện”, nghĩa là bất chấp mọi thứ, miễn đạt
được mục đích. Đối với tôi, nó không chỉ là lời nhận xét về tướng Giáp mà là
một câu nói nêu bật lên bản chất của những người Cộng sản Bắc Việt, và cả chế
độ mà họ dựng nên. Và những việc họ đã làm suốt từ những ngày đầu có mặt tại
Việt Nam đến nay, từ việc “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” đến gần
đây nhất là vụ cướp đất của nông dân đã chứng minh tất cả.
Một
kẻ đối địch ghê gớm có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất, đó là một kẻ thù
đáng gờm, là đối thủ khó đánh bại vì có mãnh lực vũ trang, có chiến lược, chiến
thuật hành động khôn ngoan… Nhưng khi nhìn xoáy vào chữ “formidable” mà
Westmoreland đã dùng, tôi chú ý nhiều đến nghĩa “arousing fear”(gợi nên sự sợ
hãi) . Với nghĩa này, nó gần giống với “terrorise” (làm cho sợ hãi). Mà làm cho
người khác sợ hãi có nghĩa là “khủng bố”. Chúng ta có thể hiểu theo hai cách về
một “đối thủ ghê gớm” như tôi đã tạm phân tích ở trên. Nhưng biết đâu, cách
hiểu thứ hai mới là điều mà ông tướng Mỹ kia ngụ ý? Xin hãy cho tôi tiếp tục
trình bày mà tạm quên đi những mối thành kiến nào đó có thể đang dâng lên trong
lòng quý vị.
Khi
căn cứ vào những dữ kiện lịch sử- những điều không thể chối bỏ, những điều đã
được trải nghiệm bằng chính xương máu của những người đã kinh qua cuộc chiến
ấy- chúng ta sẽ có cái nhìn tường minh hơn. Riêng phần mình, với kiến thức ít
ỏi về chiến tranh Việt Nam, tôi đã có thể tìm thấy những hình ảnh có khả năng
“làm cho sợ hãi” của quân đội Bắc Việt qua nhiều biến cố như Tết Mậu Thân, và
các “trận đánh” của đội Biệt động Sài Gòn như: “trận đánh” tàu nhà hàng Mỹ
Cảnh, “trận đánh” cư xá Brinks…; và chưa kể đến những câu chuyện ghê gớm mà tôi
từng được nghe những người già kể lại về vô số những “trận đánh” như thế vào
trường học, khu dân cư, cầu cống….Đến nỗi, khi nghe nói quân đội Cộng sản Bắc
Việt sắp vào đến ngã ba Cai Lang, thành phố Đà Nẵng, những người dân sống ở Đà
Nẵng khi đó đã run cầm cập vì nghe tin đồn rằng người Cộng sản mà vào họ sẽ rút
hết móng tay móng chân người dân. Đó có thể là điều sợ hãi thái quá, nhưng nó
cho chúng ta thấy khả năng gieo rắc sợ hãi đến trình độ đỉnh cao của những
người tự xưng là “quân giải phóng”.
Những
ai đọc lịch sử, những ai có đủ lương tâm và tầm tri thức trung bình, đều thấy
rằng, những cái mà quân đội Bắc Việt và những người “nằm vùng” gọi là “trận
đánh” gây nhiều tiếng vang đều không nhằm vào những mục tiêu trên tiền tuyến,
để giành chiến thắng quân sự trực tiếp mà đánh vào những nơi ăn chốn ở cốt để
gây sợ hãi. Gây sợ hãi cho người dân nhằm làm xáo trộn xã hội, gây sợ hãi đánh
vào tâm lý Quốc hội và dư luận Mỹ…. Ngày nay, ai đi qua đường Hai Bà Trưng, đều
nhìn thấy “Bia chiến công trận đánh cư xá Brinks”. Cái mà người ta gọi là trận
đánh thực ra là một cuộc đánh bom một nơi ở của cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam
Việt Nam do hai thành viên Biệt Động Sài Gòn thực hiện. Điều mà họ gọi là “trận
đánh” sao tôi thấy nó hao hao giống cách làm của những kẻ khủng bố Hồi giáo cực
đoan, chỉ khác một chỗ là họ không tự sát. Đối với thế giới ngày nay, những kẻ
đánh bom như thế thật sự là những kẻ “nguy hiểm”, “ghê gớm” .
Ngoài
cái cách thể hiện “formidable” như trên, quân đội Bắc Việt còn khiến người ta
sợ hãi hơn gấp bội vì sự coi thường tính mạng binh sĩ của họ. Thông thường, con
người sợ hãi những kẻ thù tấn công mình một cách tàn ác, nhưng người ta sẽ kinh
hoàng đến rợn người khi biết về những hành động coi tính mạng của người phe
mình như cỏ rác, cốt chỉ nhằm đạt được mục đích của kẻ chỉ huy. Người Cộng sản
đã lấy chính nghĩa chống giặc ngoại xâm để lừa dối, tuyên truyền, kích động
hàng triệu Thanh niên miền Bắc lao vào cuộc chiến như con thiêu thân. Chúng ta
được nghe nói rất nhiều về những tấm gương đầy nhiệt huyết và sự hy sinh anh
dũng của những người trẻ tuổi mới chập chững vào đời. Đối với những cái chết
đó, tôi không có bất cứ tình cảm tích cực nào ngoài sự thương tiếc. Cả một thế
hệ người đã bị lừa gạt vì không nhận chân được bản chất của chế độ, của cái chủ
thuyết mà nó rêu rao. Âu tất cả cũng chỉ là những sản phẩm lịch sử của một thời
đại !
Để
rồi sau cái ngày “thống nhất” ấy là những chuyến vượt biên vượt biển của hàng
trăm ngàn người, và đã có cả hàng ngàn người phải bỏ xác ngoài biển khơi; là
những năm tháng bao cấp, đói khổ đến cùng cực; đến nay đỡ đói khổ một chút,
nhưng dân Việt ta vẫn chưa thoát khỏi thân phận làm thuê, ở đợ cho thiên hạ;
đặc biệt vẫn còn cam chịu làm thần dân phục tùng các ông vua Cộng sản. Thế
nhưng bất chấp cái thực tế đau buồn ấy, nhiều ngụy biện về thống nhất, về “công
lao chống Mỹ cứu nước của Đảng” vẫn tồn tại ngay cả trong lớp người “có học” ở
Việt Nam.
Thiết
nghĩ một sự hy sinh chỉ nên có và đáng được ngợi ca khi đánh đổi với nó là một
giá trị to lớn hơn. Bằng lập trường đề cao cá nhân, tôi cho rằng, mọi ý niệm:
thống nhất, giải phóng dân tộc, kẻ thù…phải được đặt trong mối tương quan của
chúng với những giá trị an sinh hạnh phúc thực sự của người dân. Suy cho cùng,
mọi thứ bao gồm: thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chính trị…chỉ là những phương
tiện để đạt đến những giá trị nhân bản, để bảo vệ và phục vụ con người. Mọi
định chế, mọi nỗ lực chính trị và xã hội đều nhằm vào cái đích đến quan trọng
nhất của nó là CON NGƯỜI. Nếu mục đích cuối cùng ấy không đạt được thì mọi
phương tiện kia chỉ là mưu đồ của kẻ lãnh đạo. Thật điên rồ thay cho những kẻ
luôn hô hào “mục đích biện minh cho phương tiện”. Chúng ta biết rằng, tính
chính đáng của phương tiện phụ thuộc vào sự thích nghi và mối tương quan về bản
chất của nó đối với mục tiêu. Nói rõ hơn, chúng ta không thể dùng một phương
tiện phi nhân để giành lấy một mục tiêu nhân bản.
Kết quả là, “sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất
đất nước” đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên
kiêu hãnh hơn; mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước “giải phóng” hơn hẳn
Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo
sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh
hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống
nhất ấy có nghĩa lý gì?
Đó là
khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ
ràng. Cái mà người ta gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” ấy thực chất chỉ
là để giúp Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Hay như Lê Duẩn
từng nói : “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước
XHCN, cho cả nhân loại”. Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa
Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp
tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu
sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt.
Đã
ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày “giải phóng”, giải phóng miền Nam khỏi mối
quan hệ đồng minh với Mỹ để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng. Sự thống
nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao! Gần bốn thập niên đã qua đi, dấu
vết chiến tranh trên mảnh đất quê hương Việt Nam đã dần phai nhạt, nhưng những
tổn thương của lòng người vẫn còn hằn sâu, thậm chí ngày càng sâu hơn. Thống
nhất hai vùng địa lý nhưng vẫn vắng bóng một sự Hoà hợp trong tình tự dân tộc.
Vết thương cũ do cuộc tiến chiếm miền Nam chưa kịp lành thì chúng ta lại có
thêm những chia cắt mới : chia cắt giữa một bên là một nhóm người cam phận làm
tay sai cho ngoại bang, với một bên là những con người yêu nước không khoan
nhượng; chia cắt giữa một phía là nhóm người lãnh đạo Quốc gia cùng những kẻ ăn
theo cố gắng bám giữ ngôi vị độc tài để tiếp tục nô lệ hoá người dân, với một
phía là những người đấu tranh và chấp nhận hy sinh cho tự do và phẩm giá con người.
Tôi vẫn nghĩ rằng, một con người trở nên dũng mãnh nhờ có ý chí. Một dân tộc
trở nên hùng mạnh, cũng như vậy, phần nhiều dựa vào tinh thần và khí chất.
Nhưng tinh thần và khí chất ấy chẳng thể có được nếu dân tộc ấy chia rẽ. Chính
sức mạnh của tinh thần đoàn kết, sự Hoà hợp dân tộc có thể góp phần giúp chúng
ta tạo lập một mãnh lực mới cho dân tộc.
Chỉ
e Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục bỏ lỡ những chuyến tàu thời đại nếu trong lòng dân
tộc còn có những chia cắt chí mạng như thế. Nhưng thiết tưởng, sự Hoà hợp có
khả năng xoá bỏ mọi ngăn cách, hàn gắn mọi vết thương, mang mọi người Việt về
trong cùng một chí nguyện chỉ có thể đạt được trên tinh thần Hoà giải thiện
chí, trên quyền lợi dân tộc và trên những nguyên tắc hướng thiện chứ không phải
là sự thoả hiệp với cái xấu ác. Chỉ e những người Cộng sản Việt Nam quá u mê và
tham lam để khởi động một chương trình Hoà hợp, Hoà giải và thay đổi chính trị
đầy tham vọng như thế. Chỉ e những người Cộng sản chẳng thể làm nổi những gì mà
nhà cầm quyền độc tài Miến Điện đã làm. Chỉ e…. Bởi đến hôm nay, họ vẫn một
lòng một dạ coi mối quan hệ với Trung cộng là “chủ trương nhất quán”, là “ưu
tiên hàng đầu” như lời Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyên
bố mới đây tại Bắc Kinh.
Mỗi
năm tháng Tư về, bao nhiêu lễ lạt, đình đám vẫn diễn ra bất chấp mối hoài niệm
về quá khứ vẫn nặng trĩu trong lòng nhiều người Việt, bất chấp mối ưu tư về
tương lai đất nước vẫn canh cánh trong lòng những người có tâm huyết với đất
nước. Những con người có lương tâm và tự trọng không bao giờ vui sướng được
trong nỗi thống khổ to lớn ấy của dân tộc. Thử hỏi xương máu của hàng triệu con
người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất
trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền
làm người hay sao? Ba mươi tháng Tư- xin cầu nguyện cho tự do và nhân phẩm, cho
sự Hoà hợp dân tộc và nền công lý.
Sài
Gòn, ngày 20 tháng 4 năm 2012
©
Huỳnh Thục Vy
©
Đàn Chim Việt
*
152
Phản hồi cho “Viết cho tháng Tư”
No comments:
Post a Comment