Trương Nhân Tuấn
Thứ Năm, 31/05/2012
Ông Phạm Quang Tuấn đã trả lời
lại bài phản biện của tôi "Về các ý
kiến của ông Phạm Quang Tuấn", đồng lúc ông Dương Danh Huy cũng lên tiếng về bài phê bình của tôi "Hiểu thế nào về nội dung bản
tuyên bố ủng hộ Phi Luật Tân trong tranh chấp Trung-Phi tại bãi cạn
Scarborough?". Hai bài có đăng trên trang BauxiteVN.
Bài của ông Phạm Quang Tuấn cũng như bài
trước, chỉ lập lại các ý kiến đã viết, những chi tiết lặt vặt, không liên quan
gì đến nội dung hay chủ đề của các bài viết (ba bài) của tôi. Bài của ông Dương
Danh Huy thì cố gắng biện hộ cho cho việc "quyền chủ quyền của Phi
trong khu vực Scarborough" là "quyền chủ quyền của Phi từ đảo
Luzon". Nhưng điều tệ, trong bài này, ông Huy đã vượt qua mức tranh
luận thuần túy khoa học để bước vào lãnh vực chỉ trích cá nhân, khoe khoang và
tự mãn lố bịch.
Bài viết này, tôi sẽ đề cập đến:
1/ lần nữa cho rõ ràng và dứt khoát về "quyền
chủ quyền trong khu vực bãi cạn Scarborough".
2/ Về điều 121 của Bộ Luật Biển 1982 về
hiệu lực các đảo.
3/ Sau cùng là một số điều "lặt
vặt" khác.
I. Ta có thể hiểu thế nào về câu: "Chúng
tôi hoàn toàn ủng hộ quyền chủ quyền và các hành động bảo vệ quyền chủ quyền
của nước Cộng Hòa Philippines trong khu vực Panatag Shoal?"
Không thấy người nào trong nhóm ký tên lên
tiếng giải thích. Chỉ có ông Dương Danh Huy, một người đã rút tên ra khỏi danh
sách, lên tiếng. Theo ông này:
... “quyền chủ quyền trong khu vực bãi cạn
Scarborough” (một cụm thuật ngữ ám chỉ về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa) là khác với “chủ quyền tại bãi cạn Scarborough” (ám chỉ về các mỏm đá cao
hơn mặt nước và lãnh hải 12 hải lý của chúng)… nó không ủng hộ chủ quyền của
bên nào đối với các mỏm đá cao hơn mặt nước và lãnh hải 12 hải lý của chúng,
nhưng nó ủng hộ quyền chủ quyền của Phi trong khu vực, tức là cho rằng vùng đặc
quyền kinh tế trong khu vực đó thuộc về Philippines. Trên phương diện pháp lý,
có thể giải thích… với lập luận vùng đặc quyền kinh tế trong khu vực đó thuộc
về đảo Luzon của Philippines thay vì thuộc về các mỏm đá cao hơn mặt nước tại
bãi cạn Scarborough, bất kể nước nào có chủ quyền đối với các mỏm đá đó.
Tức là việc: "Chúng tôi hoàn toàn
ủng hộ quyền chủ quyền và các hành động bảo vệ quyền chủ quyền của nước Cộng
hòa Philippines trong khu vực Panatag Shoal", trong đó "khu
vực Scarborough" phải hiểu là "vùng đặc quyền kinh tế trong
khu vực đó thuộc về đảo Luzon".
Giải thích như vậy là không thuần lý, bởi
hai lẽ, đã nói trong bài trước:
1/ về từ vựng, nhắc lại thí dụ, khi nói "quyền chủ
quyền của Việt Nam tại vùng (hay khu vực) đảo Phú Quốc" thì người ta
sẽ hiểu "quyền chủ quyền" đó sinh từ đảo Phú Quốc chứ không
phải "quyền chủ quyền" khu vực đó sinh từ bờ biển của lục địa.
2/ Về "quyền chủ quyền"
theo luật Biển 1982. Các quyền này sinh ra từ chủ quyền lãnh thổ. Luật pháp của
Phi đã xác định bãi cạn Scarborough thuộc chủ quyền của Phi. Khi Phi có chủ
quyền tại Scarborough dĩ nhiên nước này có các "quyền chủ quyền"
tại bãi cạn này. Tạm gác hiệu lực ZEE để bớt tranh cãi, lãnh hải 12 hải lý và
vùng tiếp cận 12 hải lý của bãi Scarborough cũng là một quyền thuộc "quyền
chủ quyền" của Phi. Cột nước, mặt nước, vùng trời, thềm lục địa, tài
nguyên...trong phạm vi 24 hải lý (tính từ đường cơ bản) của bãi này thuộc quyền
tài phán của Phi. Nước này có quyền khai thác, phát triển kinh tế trong khu vực
này. Đó là các "quyền chủ quyền" của Phi. Nên biết, chu vi bãi
này là 45 km và diện tích này lên tới 150 km², chưa tính diện tích vùng lãnh
hải và vùng tiếp cận lãnh hải.
Mặt khác, thử chấp nhận rằng (để bớt tranh
cãi), nội dung của tuyên bố trên không nhằm ủng hộ chủ quyền của Phi ở
Scarborough. Như vậy, nếu chủ quyền bãi cạn này thuộc về Trung Quốc, thì việc
ủng hộ "quyền chủ quyền của Phi trong khu vực Scarborough" sẽ
không ổn. Vì khu vực ZEE của đảo Luzon sẽ chồng lấn với đòi hỏi của Trung Quốc
về lãnh hải, vùng ZEE và thềm lục địa ở bãi Scarborough. Đòi hỏi này phù hợp
với tinh thần của luật Biển 1982.
Điều này mâu thuẫn, vì ta không thể ủng hộ
hoàn toàn "quyền chủ quyền" của Phi trong một vùng thuộc chủ
quyền của Trung Quốc. Việc này chỉ có thể đưa tới khủng hoảng ngoại giao lớn
giữa Việt Nam và Trung Quốc, nếu không nói là chọc giận Trung Quốc ở những điều
không đáng.
Giải thích của ông Dương Danh Huy như thế
vừa không thuần lý (ý nghĩa từ vựng) vừa không phù hợp pháp luật của Phi, lại
vừa mâu thuẩn với luật Biển 1982.
Ông Phạm Quang Tuấn cho biết, những người
soạn thảo bản tuyên bố này là những nhà "nghiên cứu" nổi
tiếng. Tôi không đặt vấn đề về khả năng của các vị này. Nội dung Bản tuyên bố,
theo tôi, thì rất rõ ràng và hoàn chỉnh.
Nhưng lý luận của ông Dương Danh Huy, qua
bài viết nhằm giải thích khác đi ý nghĩa bản tuyên bố, mới làm hỏng mọi việc.
Điều này tôi đã viết trong bài trước: nó sẽ làm phật lòng giới trí thức Phi.
Mọi người sẽ đặt câu hỏi: Mới ký ủng hộ chưa ráo mực, sao lại tìm cách thay đổi
nội dung như thế?
Lại thêm hành động rút tên ra khỏi danh
sách. Ông Huy sợ trách nhiệm về chữ ký của mình?
Ngồi chung một thuyền, mới gặp chút bão
giông mà nhảy lên bờ, bỏ đồng bọn. Như thế rõ ràng đó thuộc "type"
người "chơi không được".
(Nếu bản tuyên bố này có gởi cho tôi, tôi
sẽ không ngần ngại ký tên, nhưng sẽ góp ý thêm ở khoản 1 và khoản 4. Bản tuyên
bố, khoản 1 mâu thuẫn với khoản 3. Khoản 1 ủng hộ hoàn toàn, hàm ý luôn việc sử
dụng vũ lực. Trong khi khoản 3, ủng hộ nội dung tuyên bố của bộ Ngoại Giao Việt
Nam là ủng hộ một giải pháp ôn hòa. Khoản 4 tôi sẽ đề nghị thêm Hoàng Sa của
Việt Nam vào chung với Scarborough. Nội dung mạnh mẽ của bản tuyên bố như thế
sẽ đi thẳng vào lòng quần chúng Phi, khiến tình hữu nghị hai bên Việt Phi sẽ
thắt chặt. Vấn đề khác ý kiến trong giới trí thức, cá nhân tôi với nhóm trí
thức ký tên, là chuyện thường tình. Mọi người cùng tề chỉnh đồng ý thì mới là
có vấn đề.)
II. Về hiệu lực các đảo ở điều 121 của bộ
luật Biển 1982:
Bản tiếng Việt bộ luật này viết về điều 121
như sau:
Điều 121: chế độ các đảo
1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước
bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt đất.
2. Với điều kiện phải tuân thủ ở khoản 3,
lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của một hòn
đảo được hoạch định theo đúng các qui định của công ước áp dụng cho các lãnh
thổ đất liền khác.
3. Những đảo đá nào không thích hợp cho con
người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa.
Tôi đã đưa ra một số thí dụ trong bài viết,
một đảo không có người ở, không có đời sống kinh tế riêng, đôi khi vẫn có hiệu
lực về hải phận "kinh tế độc quyền – ZEE" và "thềm lục
địa". Một số thí dụ về những đảo đá nhỏ, không có người sinh sống và
khả năng kinh tế tự túc, vẫn có thể có hiệu lực về ZEE và thềm lục địa.
Bộ luật SB 2699 của Phi qui định bãi cạn
Scarborough cùng các đảo TS có "regime of Islands – chế độ của
đảo". Bộ luật không xác định Scarborough và các đảo Trường Sa là "đảo
– island" hay "đá – rock". Như đã thấy, "đảo"
hay "đá", trong một số trường hợp chúng vẫn có thể có ZEE và
thềm lục địa.
Như thế, trên thực tế cho thấy, khoản 3 của
điều 121 của bộ luật Biển 1982 có nhiều điều cần xét lại.
Ngày xưa, khi khoa học kỹ thuật còn phôi
thai, một đảo đá nhỏ, hay các đảo san hô có tầm cỡ các đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, không cách nào con người có thể sinh sống. Nền kinh tế tự túc do đó cũng
không có. Thậm chí, các đảo lớn như Groenland, thời tiết khắc nghiệt không
thích hợp cho đời sống con người, mặt đất quanh năm tuyết phủ. Chiếu theo khoản
3 điều 121, các đảo này không thể có vùng ZEE và thềm lục địa. Nhưng dưới đà
tiến bộ của khoa học kỹ thuật hôm nay, một đảo đá, đảo san hô, tầm cỡ của các
đảo Hoàng Sa, Trường Sa, thậm chí một nhà giàn, một đảo nhân tạo (đèn pha)… vẫn
có thể cho phép con người đến sinh sống ở đó.
Về khái niệm "đời sống kinh tế
riêng", thế nào là đời sống kinh tế riêng? Trong thế giới "toàn
cầu hóa" hôm nay, các nước đều liên thuộc với nhau về kinh tế, mỗi
nước đều có nền kinh tế riêng của mình nhưng chắc chắn không thể tách ra sống
riêng rẽ. Một đảo đá, đảo san hô, vẫn có thể có một nền kinh tế, như khai thác
các nguồn tài nguyên về cá, dầu khí, du lịch… Thuật ngữ "nền kinh tế
riêng" vì thế rất tương đối.
Như vậy, một đảo đá, đảo san hô, trước kia
không thể có người sinh sống, thì hôm nay nhờ Khoa Học Kỹ Thuật tiến bộ, các
đảo đó con người vẫn có thể sinh sống và cũng có một nền kinh tế tự túc.
Đã có rất nhiều bài nghiên cứu của các học
giả trên thế giới nói về điều 121 Bộ Luật Biển 1982. Có rất nhiều ý kiến trái
ngược nhau về hiệu lực các đảo. Nhưng mọi người đều đồng ý ở chỗ là việc thiếu
chính xác của điều 121. Tức ai muốn diễn giải thế nào cũng được. Nhưng nếu ta
muốn tìm hiểu ý nghĩa ban đầu của các tác giả điều 121, thì ta thấy, tiên khởi,
(trong bản sơ thảo), một đảo chỉ được định nghĩa như khoản 1. Tuy nhiên, một số
quốc gia phản đối điều này, vì vùng biển của họ có mặt các đảo của nước khác,
do đó khoản 2 và 3 mới được thêm vào, nhằm hạn chế hiệu lực các đảo không có
người sinh sống. Các yếu tố "con người sinh sống" và "nền
kinh tế tự túc" là hai yếu tố quyết định để một đảo có vùng ZEE và
thềm lục địa hay không. Đảo lớn hay nhỏ chỉ là một điều rất phụ, không hề được
đề cập ở điều 121 của Luật biển. Điều cần chú ý khác là tình trạng địa lý gần
bờ hay xa bờ của các đảo không hề được qui định theo Luật Biển. Tức một đảo cận
bờ hay xa bờ, đều áp dụng điều 121 như nhau.
Quí ông Phạm Quang Tuấn và Dương Danh Huy
luôn viện lý do các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là các đảo nhỏ, do đó không
thể cho chúng hiệu lực như đất liền (tức có vùng ZEE và thềm lục địa, quan niệm
này chủ quan, vì nó không dựa lên một yếu tố pháp lý nào.
Hiện nay điều 121 của Bộ Luật Biển có các cách
giải thích khác nhau, tùy theo quyền lợi của các quốc gia. Các quốc gia có đảo
dĩ nhiên sẽ đòi hiệu lực các đảo của họ ở mức tối đa có thể đòi hỏi. Các quốc
gia giáp biển nhưng không có đảo, bị các đảo của nước khác chi phối, dĩ nhiên
yêu cầu hiệu lực đảo này ít nhất có thể được. Hai quan niệm trái ngược này có
thể đưa tới tranh chấp, thậm chí xung đột, vì quan niệm của hai bên đều dựa
trên những lý lẽ chánh đáng. Bộ Luật Biển 1982 không dự trù điều khoản nào về
cách phân chia vùng ZEE và thềm lục địa giữa hai quốc gia, mà chỉ nói hai bên
phải giải quyết bằng "thỏa thuận theo như qui định ở điều 38 của Qui
Chế Tòa Án Quốc Tế". Tức hai bên phải giải quyết trên tinh thần "équitable
– công bằng".
Vấn đề là: thế nào là công bằng?
Chia theo trung tuyến? Nếu đảo nhỏ quá so
với lục địa thì nước lục địa cho là không công bằng. Chia theo tỉ lệ diện tích?
Nước có đảo sẽ cho là không công bằng vì Luật Biển điều 121 nói rằng "đảo
được hoạch định theo đúng các qui định của công ước áp dụng cho các lãnh thổ
đất liền khác". Tức là đảo và đất liền có giá trị như nhau trước pháp
luật. Chia theo dân số? Nếu vậy thì Trung Quốc sẽ rất mừng, họ có dân số 1/5
thế giới. Công bằng là 1/5 biển trên địa cầu này thuộc về họ? Nếu vậy các nước
khác sẽ không đồng ý, vì việc phân phối biển cho các nước ven biển là tính theo
đơn vị quốc gia chứ không tính theo dân số của quốc gia. Vấn đề "công
bằng" vì thế cũng là một khái niệm rất tương đối. Luật công bằng thật
ra là luật của kẻ mạnh, hay của kẻ hiểu biết, khôn ngoan.
Thử nhắc lại tranh chấp Hoàng Sa - Trường
Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc (và một số nước khác. Việt Nam nên có quan niệm
thế nào về Hoàng Sa và Trường Sa?
Nếu hai quần đảo này không thuộc Việt Nam,
dĩ nhiên phía Việt Nam sẽ quan niệm rằng các đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ là
các đảo đá nhỏ, không phù hợp cho đời sống con người cũng như không có nền kinh
tế tự túc, do đó không có qui chế "đảo" theo điều 121.
Nhưng nếu hai quần đảo này thuộc Việt Nam,
dĩ nhiên ta sẽ cho chúng có đầy đủ hiệu lực, đúng theo qui định điều 121. Thật
vậy, các đảo Trường Sa của Việt Nam hiện nay có người sinh sống và chúng có thể
có một nền kinh tế tự túc nếu phát triển đúng mức. Nếu ta có ý kiến khác, tức
các đảo này của mình nhưng mình xem chúng có giá trị như "đá –
rock", điều hiển nhiên người ngoài sẽ đặt nghi vấn về chủ quyền của
mình tại các đảo này. Đó một hiện tượng, gọi là đồng thuận ám thị, các đảo này
không phải của Việt Nam. Phía Trung Quốc biết tỏng điều này do đó họ càng làm
mạnh, đòi hỏi đầy đủ hiệu lực cho các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phía Việt Nam
nhượng bộ, họ càng lấn tới.
Và khi người Việt Nam nào lựa chọn điều
này, chắc người đó không thuộc loại "hiểu biết và khôn ngoan"
rồi!
Vấn đề đặt ra, vừa đứng trên bình diện bang giao quốc tế,
vừa nhân danh quyền lợi của quốc gia, dân tộc, Việt Nam cần có quan niệm nào để
chính mình không bị thiệt hại và không làm thiệt hại cho quốc gia khác?
Nếu Việt Nam không mạnh, thì Việt Nam phải
khôn ngoan. Tôi đã nói nhiều lần, lựa chọn qui chế đảo của Việt Nam tại Hoàng
Sa và Trường Sa là một lựa chọn chiến lược. Tương tự như sự lựa chọn của Phi
tại bãi cạn Scarborough hiện nay.
Áp dụng máy móc điều 121 thì không ổn mà
không áp dụng điều này cũng không ổn luôn. Làm thế nào để quyền lợi quốc gia
không mâu thuẫn với Luật Biển 1982 đồng thời, quan trọng hơn cả, không mâu
thuẫn với quyền lợi các nước khác.
Việt Nam "trụ" hay không "trụ"?
hay "Dĩ bất biến ứng vạn biến"? Trụ cũng chết mà không "trụ"
cũng chết. "Bất biến" lại càng chết sớm.
Ta thấy tranh chấp biển đảo ở khu vực biển
Đông cực kỳ phức tạp:
1/ chủ quyền các đảo,
2/ Quan niệm khác biệt về hiệu lực các đảo,
3/ Việc chồng lấn giữa vùng biển ZEE và thềm lục địa sinh ra từ các đảo với vùng biển ZEE và thềm lục địa sinh ra từ bờ biển của các nước.
4/ Quan trọng hơn cả là thái độ bá quyền, bất chấp luật lệ của nhà nước Trung Quốc.
2/ Quan niệm khác biệt về hiệu lực các đảo,
3/ Việc chồng lấn giữa vùng biển ZEE và thềm lục địa sinh ra từ các đảo với vùng biển ZEE và thềm lục địa sinh ra từ bờ biển của các nước.
4/ Quan trọng hơn cả là thái độ bá quyền, bất chấp luật lệ của nhà nước Trung Quốc.
Việt Nam cần phải có một sách lược như thế
nào để có thể bảo vệ được chủ quyền của mình trên các đảo, điều này tôi đã nói
trong bài viết ở đây:
Về thái độ của Phi qua Bộ Luật SB 2699. Một
vài dấu hiệu, mà ông Phạm Quang Tuấn có nhắc, cho thấy có thể Phi quan niệm các
đảo Trường Sa (và bãi cạn Scarborough) là "đá". Một vài nguồn
tin khác cho biết Phi đề nghị với Trung Quốc để chia đôi bãi cạn Scarborough.
Nhưng các điều này không có gì chắc chắn. Nhắc lại rằng, theo tuyên bố bảo lưu
năm 1984 khi thông qua Luật Biển 1982, Luật Quốc Gia của Phi có hiệu lực cao
hơn Luật Biển 1982. Khi dùng thuật ngữ "regime of Islands" để
chỉ cho các đảo Trường Sa và bãi Scarborough, là họ để một khoảng trống chiến
lược, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Họ có thể giải thích Bộ Luật SB 2699 một cách
bất kỳ, lúc nào họ cảm thấy có lợi. Bộ ngoại giao, kể cả tổng thống, đều không
có thẩm quyền giảng giải hay ký kết cảc kết ước liên quan đến lãnh thổ. Ký kết
nghiên cứu và thăm dò giữa Phi và Trung Quốc của tổng thống Aroyo năm 2005 (sau
đó có mặt Việt Nam) đã bị quốc hội Phi hủy bỏ.
III/ Về các chi tiết lặt vặt:
Người ta nói "lượng tiểu phi quân
tử". Hai bài viết của ông Phạm Quang Tuấn chỉ nói những điều "lặt
vặt". Riêng ông Dương Danh Huy, thái độ rút tên ra khỏi danh sách bản
tuyên bố, tìm cách thay đổi nội dung bản tuyên bố, cho thấy ông này chỉ là loại
"quân tử nói đi nói lại".
Về thuật ngữ "chủ quyền –
souveraineté", thực ra thuật ngữ này không đơn thuần là "chủ
quyền", mà định nghĩa của nó vượt ra ngoài phạm vi tranh luận hôm nay.
Hiểu "souveraineté" là chủ quyền, như tinh thần của quốc tế
công pháp, thường phải kèm theo chữ "territoriale – lãnh thổ",
"souveraineté territoriale – chủ quyền lãnh thổ", hay sử dụng một
thuật ngữ khác là "danh nghĩa chủ quyền". Khi có danh nghĩa
chủ quyền trên một lãnh thổ (một hòn đảo), chiếu theo Bộ Luật Biển 1982, thì sẽ
có những quyền sinh ra từ danh nghĩa này. Đó là các quyền đã được định nghĩa về
vùng ZEE, thềm lục địa v.v…
Vấn đề trong bài viết của tôi là không bàn
về thuật ngữ "souveraineté", mà nói về việc ông Dương Danh Huy
thay đổi ý nghĩa của bản tuyên bố. Không thể biến hóa từ "quyền chủ
quyền của Phi tại khu vực bãi cạn Scarbourough" thành ra "quyền
chủ quyền của Phi tại khu vực ZEE của Luzon" được.
Ông Phạm Quang Tuấn có thể chẻ sợi tóc ra
làm tư, có thể lăng nhăng với "chủ quyền" và "quyền
chủ quyền", có thể làm sạch rác trong các bài viết của tôi, nhưng
không thể bênh vực ông Dương Danh Huy, phù phép biến khu vực Scarborough thành
khu vực ZEE của Luzon.
Ông Phạm Quang Tuấn cũng có nói về "moral
support" để phản biện vụ tôi nói động từ "support" có
hai nghĩa theo tiếng Pháp "supporter và soutenir". Nghĩa nào
thì cũng không thể ủng hộ "miệng". Nhưng văn bản còn đó,
nguyên văn là "fully support". Chỉ có "moral
support" thì không đủ rồi!
Về việc cộng tác báo chí nước ngoài, tham
gia các hội thảo, tranh luận với học giả nước ngoài, viết thư phản biện các tạp
chí khoa học ...v.v… tôi thành thực khen ngợi quí vị nào có những nỗ lực đóng
góp cho việc củng cố chính nghĩa của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa trước
cộng đồng quốc tế. Ông Dương Danh Huy chỉ trích tôi chưa từng làm các việc này.
Tôi quan niệm rằng, mỗi người một sở trường một sở đoản một tình trạng đặc biệt
cá nhân, làm việc gì thì nên tính toán để có kết quả lâu dài. Tình trạng tranh
chấp Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc là con bệnh ung thư đến thời kỳ thứ
ba, nếu chỉ xức thuốc đỏ thì cũng như không.
Tôi đã từng thông báo cho mọi người, từ
nhiều năm trước, trên diễn đàn Talawas, là các Atlas trên thế giới đa số đều
ghi Hoàng Sa là của Trung Quốc. Không ai tin, bây giờ thì ai cũng thấy cho tới
cơ quan Quốc Gia địa dư của Hoa Kỳ cũng ghi Hoàng Sa của Trung Quốc. Tôi đã
từng thông báo từ nhiều năm trước, ít ra 05 năm, bản đồ "Trung Quốc
chính khu" với hình chữ U chín gạch, sẽ được loan truyền ra khắp thế
giới. Nay thì đúng vậy, bản đồ này được loan truyền rộng rãi qua các công tác
trao đổi giáo dục, văn hóa… giữa các nước với Trung Quốc. Hiện nay, các văn bản
của các học giả Trung Quốc, các bài học dạy sinh ngữ Hoa tại các trường ở Châu
Âu… đều có bản đồ Trung quốc chính khu với hình chữ U chín gạch. Quí vị khoe
khoang là tham dự hội thảo này kia, nhưng quí vị biết gì về các chuyện đó? Chờ
nước đến cổ mới nhảy thì đã quá muộn rồi! Những gì quí vị phản đối Nature hay
Science đều chỉ là bề nổi của tảng băng, hay chỉ là công tác "nước đổ
lá môn" mà thôi.
Tôi cũng có đọc bài "tranh
luận" của ông Phạm Quang Tuấn với một học giả nước ngoài về tranh chấp
Hoàng Sa và Trường Sa. Cười bể bụng. Một bên khách quan, khoa học nói có sách
mách có chứng, một bên nói chuyện tình cảm dạt dào. So sánh lý lẽ của ông Phạm
Quang Tuấn với lý lẽ của học giả kia, tôi liên tưởng đom đóm với mặt trời. Có
điều đom đóm nói ngang thì mặt trời cũng lặn, chịu thua thôi! Tôi cũng có đọc
các bài của ông Dương Danh Huy trên báo chí nước ngoài, đôi khi giật mình té
ghế. Ông này điển hình là một "học giả Việt yêu nước ngoài".
Khi thì yêu nước Phi, khi thì yêu nước Tàu. Hôm nào rảnh điểm lại các bài này
để độc giả cười rã ruột cho vui.
Về việc công bố các công trình nghiên cứu,
lẽ ra tôi đã cho ra mắt cuốn "Địa lý chiến lược biển Đông" từ
mùa hè năm ngoái, nhưng có nhiều vấn đề thay đổi quá nhanh, cần phải điều chỉnh
lại. Tôi cũng đang cặm cụi sửa chữa và dịch tác phẩm "Biên giới
Việt-Trung 1885-2000 lịch sử thành hình và những tranh chấp" in năm
2005 của tôi sang tiếng Pháp nhưng chưa xong. Vì còn chờ kết quả phân giới, cắm
mốc của Hiệp Ước Biên Giới Việt - Trung vừa kết thúc.
Theo tôi, mỗi người có một sở trường, một
sở đoản. Không nên ép ai trong một lãnh vực nào. Trên vấn đề Hoàng Sa và Trường
Sa, viết bằng ngôn ngữ nào không phải là điều tiên quyết, mà quyền lợi của dân
tộc Việt Nam được đặt ở đâu trong bài viết đó. Trường hợp bản tuyên bố ủng hộ
Phi của các nhà trí thức, tôi bóp trán suy nghĩ sẽ chờ bao lâu nữa mới có một
dịp bằng vàng nhằm "quốc tế hóa" tranh chấp Hoàng Sa, đưa chủ
đề này vào các diễn đàn ASEAN, hay đưa vào hiệu lực của DOC, và sắp tới, COC. Tôi lên tiếng phê bình và tôi bất chấp dư luận phê
phán tôi ra sao.
Những dòng mà ông Dương Danh Huy viết ra,
quá là khoe khoang cá nhân, mặc dầu qua hình thức chỉ trích người khác (tức là
tôi), mà điều này không có chỗ đứng trong các vấn đề của đất nước. Những việc
quí vị đã làm, đã lấy lại cho Việt Nam những gì? Đem lợi cho Việt Nam những gì?
Nếu chưa có gì thì đừng nên kể lể công trạng ra như vậy.
Nay mai có dịp tôi sẽ cho đăng bài "Từ
hội chứng Gruzia (Géorgie) đến mặc cảm ăn cháo đá bát", trong đó tôi
có đề cập đến hai ông Dương Danh Huy và Phạm Quang Tuấn, một tiến sĩ vật lý,
một giáo sư hóa học, hai "học giả" Việt đầu tiên đã ví Việt
Nam với Gruzia và Trung Quốc với Nga trong tranh chấp giữa các nước này. Quí vị
đón đọc.
Trương Nhân Tuấn
---------------------------------------------------
THEO DÒNG THỜI SỰ :
Nguyễn Ngọc Già - Thứ Tư, 30/05/2012
Dương Danh Huy - 30/05/2012
Phạm Quang Tuấn - 29-5-2012
Trương Nhân Tuấn -
28/05/2012
Dương Danh Huy - 29-5-2012
Phạm Quang Tuấn - 27-5-2012
Trương
Nhân Tuấn -
May 25, 2012 3:28 PM
Dương
Danh Huy - 25-5-2012
Bauxite VN -
23-5-2012
BBC -
21-5-2012
RFI -
21-5-2012
Thư gửi Ngài Jerril Galban Santos, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng Hòa Philippines tại Việt
Nam
Trương
Nhân Tuấn -
May 17, 2012 2:52 PM
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu