Lê Tuấn
Huy
Tháng
5 29, 2012
Bài
So sánh cải tổ chính trị ở VN và TQ mới đây
của Trình Ánh Hồng đã đem lại những thông tin và nhận định có giá trị. Từ việc
so sánh hiến pháp, tác giả truyền đạt cái nhìn lạc quan hơn về cải cách chính
trị ở Việt Nam so với Trung Quốc. Điều này không sai nhưng vẫn cần xét thêm.
Như
được biết, khởi thủy của hiến pháp Việt Nam là văn bản được ban hành năm 1946,
do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo. Nhiều năm sống và hoạt động cách mạng
trong chính môi trường của đất nước có cuộc Đại Cách mạng 1789, lý tưởng tự do
– bình đẳng – bái ác và pháp quyền không thể không đi vào nhận thức của ông.
Ngoài ra, nước Việt Nam mới ra đời trong bối cảnh kết thúc Thế chiến II, mà
người Mỹ đóng vai trò lớn trong việc đánh bại phát xít Nhật, thế lực thực dân
trực tiếp cai trị Việt Nam khi ấy. Và việc đưa ngôn từ chính trị của Hợp Chúng
quốc vào văn kiện của nước mình, từ Tuyên ngôn Độc lập đến Hiến pháp, là cách
mà nhà cách mạng Việt Nam tranh thủ lực lượng quốc tế cho nền độc lập còn non
yếu.
Tinh
thần dân chủ và pháp quyền mà Hồ Chí Minh tiếp thu đó, vốn mang ý nghĩa thời
đại và nhân loại, nên việc những câu chữ mang giá trị phổ quát của Hiếp pháp
1946 được giữ lại hoặc chỉnh lý và hiện diện ở những hiến pháp ngày càng đậm
chất chủ nghĩa xã hội sau này, là điều chỉ vinh danh thêm chứ không gây hại cho
nội dung xã hội chủ nghĩa, và càng không thể triệt tiêu sợi chỉ đỏ này, nên
không nhất thiết phải bị “phủ định sạch trơn”.
Có
thể nói, những yếu tố dân chủ và pháp quyền (xuất xứ tư bản chủ nghĩa) thể hiện
trong hiến pháp Việt Nam (xã hội chủ nghĩa), dù cũng chính là nguyện vọng về
phía người dân, thì về mặt tiến trình và trong điều kiện chủ nghĩa xã hội,
chỉ là vấn đề của bối cảnh lịch sử, “phương pháp cách mạng”, và kế
thừa ngôn từ.
Trong
khi đó, hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời sau Hiến
pháp 1946 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến tám năm (1954), khi mà cuộc Chiến
tranh lạnh đã định hình và Trung Quốc kết thúc cuộc nội chiến (1927-1950) chưa
lâu, nên ngôn từ sắt đá kiểu “ai thắng ai” là không thể tránh khỏi. Ngoài ra,
sự chi phối của văn hóa Khổng giáo vai trò của lãnh tụ họ Mao là những nhân tố
không thể bỏ qua.
Trên
tinh thần này, các hiến pháp sau (1975, 1978, 1982), trong bối cảnh của chủ
nghĩa xã hội đặc trưng Trung Hoa – từ chủ nghĩa xã hội kiểu nông dân của Mao
Trạch Đông đến cải tổ của Đặng Tiểu Bình, từ Cách mạng Văn hóa đến Thiên An
Môn, từ tách khỏi khối xã hội chủ nghĩa thế giới đến “trỗi dậy hòa bình” – đất
nước này luôn mang sự hãnh tiến của riêng mình, nên sự sắt lạnh của ngôn từ
cũng là kết quả hợp lý.
Bên
cạnh yếu tố bối cảnh và kế thừa, tính hiện thực của hiến pháp
cũng là vấn đề không thể bỏ qua. Những hiến pháp thiếu xác thực đã được gọi
bằng nhiều cách, như “hiến pháp hư cấu” (Fictive Constitution), “hiến pháp
(trên) giấy” (Paper Constitution), hay “hiến pháp giả hiệu” (Façade
Constitution), là khái niệm được nhắc đến nhiều hơn về mặt học thuật, do lý
thuyết gia chính trị Giovanni Sartori (1924 –) đưa ra.
Ở
các quốc gia toàn trị hoặc dân chủ nửa vời, bằng nhiều cách, ở nhiều cấp độ và
trên nhiều phạm vi, các nội dung dân chủ trong hiến pháp có thể dễ dàng không
được hiện thực hóa. Cả người Việt Nam và Trung Quốc đều không thiếu kinh nghiệm
và trải nghiệm trong việc này.
Trình
Ánh Hồng đã thận trọng một cách xác đáng, nhấn mạnh “về tiềm năng tương lai”
khi cho rằng “thảm cỏ dân chủ” Việt Nam có phần nhỉnh hơn Trung Quốc. Nhưng vấn
đề còn ở chỗ tiềm năng này có sẽ là hiện thực hay không, và hiện thực đó sẽ
là phát triển tự thân – của hiến pháp và từ hiến pháp – hay phải qua con đường
khác.
Như
tác giả cũng đã thể hiện, không chỉ ở tiềm năng hiến pháp, mà trên tổng
thể, cả tiềm năng văn hóa và tiềm năng xã hội, Việt Nam cũng có
chút nhỉnh hơn Trung Quốc trong cải cách chính trị. Tuy nhiên, khi xét thực tế
cụ thể, các tiềm năng này dường như cân bằng lại.
Chính
thức, cải tổ tại Trung Quốc bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978),
tại Việt Nam từ Đại hội VI (1986). Trong văn bản, ngoài cách dùng từ và diễn
đạt riêng của mỗi nước, đã có sự tương đồng trong nhận định về những khuyết tật
mà từ đó cần cải cách chính trị[1].
Ba
năm sau sự kiện Thiên An Môn, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp Đại hội XIV (1992).
Tại đây, ngoài nền “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, họ cũng tuyên bố về
nền “chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa”, xác định cải cách thể chế nhưng
“không phải là thực hiện chế độ đa đảng và chế độ nghị viện của phương Tây”[2]. Tuy vậy, chế độ hợp tác
nhiều đảng vẫn tiếp tục được duy trì, theo phương châm được nêu lên tại Đại
hội XV (1997): “chung sống lâu dài, giám sát lẫn nhau, chân thành với nhau,
vinh cùng hưởng, nhục cùng chịu”[3].
Đến
thời kỳ của Đại hội XVII (2007), Sách trắng về Hệ thống chính đảng tại Trung
Quốc (White Paper on China’s Political Party System) đã lần đầu tiên được
công bố (15/11/2007)[4], trong đó có những
phần nhấn mạnh đến quan hệ của hệ thống hợp tác đa đảng với việc xây dựng quyền
lực nhà nước và hiện đại hóa.
Như
vậy, sau hơn 30 cải tổ, các đảng nhỏ tại Trung Quốc, dù không thực chất chăng
nữa, thì cũng không những không mất đi mà còn được xác quyết cả về lý luận lẫn
thực tiễn.
Trong
khi đó, tại Việt Nam, chưa đầy hai năm đổi mới, dạng “đa nguyên” hình thức nhất
đã bị triệt tiêu. Vào lúc mà Đông Âu chỉ mới bắt đầu có những biến động, Đảng
Xã hội và Đảng Dân chủ đều tuyên bố “kết thúc sứ mạng lịch sử” và giải thể (lần
lượt, 07/1988 và 10/1988).
Hệ
thống đa đảng tại Trung Quốc được cho là do truyền thống chung sống và hợp tác
lâu dài của Đảng Cộng sản với các đảng khác. Nhưng phải chăng tại Việt Nam
không có một truyền thống tương tự? Căn cứ vào chính lịch sử cách mạng mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo và viết nên, câu trả lời là “không”.
Sự
khác biệt về hệ thống đảng phái có thể còn được biện giải bằng điều kiện cụ
thể của mỗi nước, nhưng kỳ thực, tận cùng thì vấn đề chỉ là “phương pháp
cách mạng” mà việc nhận thức, đề ra và thực hiện phần nhiều xuất phát từ chủ
thể.
Cũng
với vai trò ấy của chủ thể mà sau vụ Thiên An Môn, sau sự sụp đổ Đông Âu, và
trước (cả) khi Liên Xô tan rã (12/1991), tại Hội nghị Trung ương 8 khoá VI
(03/1990), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra thuật từ ổn định chính trị.
Thực tế, ý niệm này giữ vai trò chỉ đạo trong toàn bộ tiến trình cải cách chính
trị – xã hội ở Việt Nam, nhưng được hiểu và vận dụng theo hướng bảo thủ.
Dù
sao, sau hội nghị ấy, quá trình vẫn tiếp tục, đi đến chỗ nhìn nhận nhà nước
pháp quyền, cả ở văn kiện Đảng[5] và hiến pháp[6]. Việc đó như một động lực mới
tiếp tục thúc đẩy cải cách. Hội nghị Trung ương 4 khóa X (01/2007) đã đề ra
những chủ trương lớn nhằm tách bạch hơn giữa Đảng và nhà nước, qua việc giảm bộ
máy trung ương Đảng trong lĩnh vực kinh tế và nội chính, đồng thời cải tổ quân
đội trong hoạt động kinh tế.
Tưởng
chừng cải tổ sẽ tăng tốc, nhưng sự khập khễnh quá lâu giữa cải cách chính
trị với cải cách kinh tế đã đến lúc làm biến dạng môi trường cải tổ. Kiểu
chính trị quyền-tiền-nhóm, được sự hậu thuẫn của bạo lực và
biện minh của giáo điều, đã bóp méo và cản trở tiến trình đổi mới.
Từ sau hội nghị vừa nói, khó mà ghi nhận bước đi nào tạo thay đổi thực chất.
Hai Hội nghị Trung ương 4 (12/2011) và 5 (05/2012) vừa rồi của khóa XI, dù nhận
thức được mức độ nghiêm trọng của những vấn đề nội tại, nhưng chủ yếu vẫn lặp
lại những giải pháp và cơ chế cũ chứ không đưa ra được cái hữu hiệu để thay
đổi.
Nếu
nhận định “Kể từ năm 2006, cải tổ chính trị ở Việt Nam đã được thực hiện theo
cách tương tự ở Trung Quốc trong nửa cuối thập niên 1980 trước khi tàn sát
Thiên An Môn năm 1989 làm mọi sự chựng lại” có hàm ý rằng từ thời điểm của Đại
hội X (04/2006), cải cách ở Việt Nam càng được đẩy mạnh, thì e rằng không đủ cơ
sở. Những nỗ lực tự phát của các lực lượng cấp tiến phi định hình hay
những biểu hiện tích cực đơn lẻ trong sinh hoạt chính trị, dù không thể
không có vai trò nhưng cũng không thể thay thế cho những thay đổi tự giác,
có hệ thống, cả trên lý luận và thực tế, của những chủ thể
thực quyền đã định hình.
Về
mặt pháp quyền, ở những nơi thiếu vắng cơ chế thực thi và phúc quyết,
thì rốt lại, văn bản hay phát biểu cũng chỉ là những điều được viết sẵn cho
người cầm quyền, nên giữa ngôn từ với ý chí và việc thực hiện
là một khoảng cách không thể vượt qua hoặc không muốn vượt qua về phía chủ thể.
Chẳng
hạn, Việt Nam và Trung Quốc, dù có lý luận và hiến pháp “dân chủ” hơn Miến
Điện, cũng không tạo được bứt phá như nước này. Thực tế của Miến Điện cho thấy
mọi biện minh về lựa chọn lịch sử, bối cảnh đặc thù, ổn định xã hội… xem ra đều
phá sản (và nực cười), nhường chỗ cho nhân tố chủ thể.
Bởi
nhân tố đó mà Trung Quốc đã cải tổ từ năm 1978 còn Việt Nam phải đến năm 1986,
trong khi xuất phát lý luận và mô hình, cũng như thời gian trải nghiệm chủ
nghĩa xã hội của hai nước là gần như nhau. Hơn thế, từ năm 1975, Việt Nam đã có
điều kiện khách quan về chính trị, kinh tế, xã hội thuận tiện hơn Trung Quốc
trong việc thay đổi. Chung quy, cũng từ nhận thức và ý chí của
chủ thể quyền lực, trên nền văn hóa truyền thống.
Cái
văn hóa đa dạng tư tưởng nhưng cũng lắm tranh đoạt và xưng hùng xưng bá của
phương Bắc đã sinh ra được cái gọi là Tư tưởng Mao Trạch Đông rồi Lý luận Đặng
Tiểu Bình, tự giác từ chủ thể nó mang tên. Trong khi ở Việt Nam, phải đến cuối
những năm 1980, vấn đề Tư tưởng Hồ Chí Minh mới được đặt ra, nhằm tạo một nền
tảng tư tưởng bổ sung, trước cuộc khủng hoảng lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa xã hội.
Phương
Bắc có thể sinh ra Đặng Tiểu Bình: nhiều lần bị “trù dập” nặng nề nhưng kiên
trì và kiên quyết thay đổi. Phương Nam, đến nay, chỉ có thể sinh ra Nguyễn Văn
Linh: không có thách thức nội bộ nhưng lại nhất quyết nhường bước khi đổi mới
bắt đầu chẳng bao lâu. Phương Bắc có thể sinh ra Triệu Tử Dương hay Ôn Gia Bảo:
dám có hành động hay quan điểm ngược chiều ngay khi tại vị. Phương Nam, hiện
giờ, chỉ có thể sinh ra Võ Văn Kiệt hay Nguyễn Văn An: lên tiếng mạnh hơn về
chuyển đổi chính trị khi đã về hưu[7].
Trung
Quốc dám nhanh chóng thoát khỏi cái bóng của Liên Xô, tự mình xưng hùng. Việt
Nam thì chỉ khi thực thể của cái bóng thể chế sắp đổ mới (và lại) tìm đến một
cái bóng mới. Trung Quốc tính toán và triển khai chiến lược quốc tế từ rất sớm.
Việt Nam thì đến khi tình thế cấp bách mới nhận ra vấn đề.
Đảng
Cộng sản Trung Quốc có thể dung chấp hình thức đối với những đảng khác, Đảng
Cộng sản Việt Nam thì tuyệt đối không. Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể cứng rắn
nhất trong nội bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam thì không (hoặc chưa). Đảng Cộng sản
Trung Quốc dám thua dân, Đảng Cộng sản Việt Nam thì không (hoặc chưa)[8].
Cải
tổ tại Trung Quốc có thể tạo nên “sự bừng nở trí thức”, cải cách tại Việt Nam lại
khiến trí thức phải tự thoái lui[9].
Những
sự thể đó không phải là ngẫu nhiên, mà tương quan qua lại với những điều ít
nhiều có tính đặc trưng của chủ thể thực quyền ở hai nơi. Trung Quốc cải cách
với tư duy đi trước và tiến công, Việt Nam cải cách bằng tư tưởng ứng phó và
phòng thủ. Người Trung Quốc nhạy với thay đổi từ vấn đề khách quan, người Việt
Nam nhạy với nguy cơ từ thái độ chủ quan. Đảng Cộng sản ở phương Bắc có cả tự
tin và tự đại, Đảng Cộng sản ở phương Nam thiếu cái trước mà thừa cái sau…
Bởi
thế, cho dù bất kỳ yếu tố đột biến nào cũng có thể tạo thay đổi bước ngoặt ở
nước này hay nước kia, nhưng khi xét vấn đề rộng hơn tiến trình hiến pháp, có
thể sẽ thấy tiềm năng của cải tổ chính trị nghiêng hơn một chút về phía Bắc.
Thật
ra, cả ý kiến của tôi và nhận định của Trình Ánh Hồng đều không ra khỏi quỹ đạo
“ai ngưỡng mộ ai” mà trí thức mỗi nước nhìn sang bên kia, với mong muốn thấy
tiến bộ bên đấy để thúc đẩy tiến bộ bên mình.
Nhưng
với giới bảo thủ, có thể ngược lại, thấy được cái chậm trễ bên kia là cơ hội để
kìm hãm cái tiến bước bên này. Ở những chủ thể thiếu tự tin mà tâm thế chất đầy
những diễn biến nguy cơ, sự “vận dụng” đó có nhiều khả năng hơn.
Gần
sáu năm trước, khi những cải tổ tại Trung Quốc vẫn là niềm khích lệ nóng hổi để
giới cấp tiến Việt Nam nhân đó tiến bước[10], chắc hẳn cả phía bảo thủ lẫn
cấp tiến, theo hướng riêng của mỗi bên, đều cảm thấy “lạnh lưng” khi có thông
tin nói rằng cải cách chính trị tại nước mình đi nhanh hơn Trung Quốc, qua cuộc
phỏng vấn của Trình Ánh Hồng dành cho BBC Việt ngữ.
Ông
cho hay rằng vào thời gian đó, nhiều trí thức Hoa lục đã kêu gọi học tập Việt
Nam mở rộng dân chủ, rằng Hồ Cẩm Đào không hài lòng trước những chuyển biến ở
phương Nam. Vị giáo sư này không nhân đấy cho biết rằng Trung Quốc có một hệ
thống “hợp tác đa đảng”, điều mà đại đa số người đọc và bộ máy ở Việt Nam không
biết đến, mà tiết lộ rằng Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam phát triển theo
mô hình Singapore, tức cho tồn tại những đảng đối lập cực yếu trước một đảng
cầm quyền cực mạnh.
Vậy
mà thời gian qua, trong toan tính của Trung Quốc, ngay cả cái dự phóng tối
thiểu và kiềm tỏa đó cho Việt Nam cũng không hề có bước đi nào. Ngược lại,
những giật lùi lại thấy rõ: việc luật hóa hóa các định chế dân chủ liên tục bị
đình hoãn, đạo đức chính trị và đạo đức công vụ thoái hóa, bạo lực lên ngôi,
báo chí giảm dần uy lực, trí thức thì lui về với sự phản biện tự phát…
Phải
chăng những người bảo thủ đã dùng chiếc phanh Trung Quốc để phanh đà cải cách
Việt Nam, với cái cớ đã đi quá nhanh? Điều này, cộng hưởng với những tố chất
nội tại của nền chính trị và chủ thể thực quyền, là một thảm họa.
Người
nước ngoài nhìn vào Việt Nam ở một khía cạnh nào đó, có thể lạc quan trước
những ngôn từ và diễn biến hình thức, nhưng chính chúng ta thì cần nhìn vấn đề
thấu đáo hơn, để qua đó ghi nhận đúng với thực tế và thực chất, tránh lạc quan
đến ảo tưởng, mà cũng đừng bi quan đến bế tắc.
Tháng
Năm 2012
©
2012 pro&contra
[1] Xem: Nguyễn Thế Tăng (chủ
biên): Trung Quốc cải cách và mở cửa (1978-1998), Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2000, tr. 113-117; Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
Toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, 1987, Hà Nội, tr. 109-123.
[2] Nguyễn Thế Tăng: Sđd,
tr. 131.
[3] Nguyễn Thế Tăng: Sđd,
tr. 135. Cũng xem: Doãn Trung Khanh: Chế độ chính trị Trung Quốc (Nguyễn
Mạnh Sơn dịch), Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. HCM, 2012, tr. 115-122.
[4] Xem bài giới thiệu và toàn văn
(bản tiếng Anh) tại website của chính quyền trung ương Trung Quốc:
http://www.gov.cn/english/2007-11/15/content_806309.htm
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1994, tr. 56.
[6] Trần Gia Thắng (biên tập): Hiến
pháp Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb Lao động – Xã
hội, Hà Nội, 2002, tr. 177.
[7] Trường hợp Trần Xuân Bách
không nằm trong tốp cao nhất.
[8] Sự việc tại Ô Khảm, rõ ràng đã
có hành động “chống chính quyền nhân dân”, “chống người thi hành công vụ” và
“gây rối trật tự công cộng” ở quy mô lớn, có tổ chức, nhưng những người “chống”
đó đã vô can. Còn ở Tiên Lãng, nhiều khả năng Đoàn Văn Vươn và những người liên
quan khó mà thoát tội trong bối cảnh cần “giữ vững kỉ cương, phép nước”.
[9] Việc tự giải thể của Viện
Nghiên cứu Phát triển IDS (09/2009) sau chỉ hơn hai năm thành lập, là lựa chọn
không thể khác được.
[10] Xem: Kiệt Minh, Trương Tây
Ninh, Trương Thao, Khúc Khắc Mẫn: Mười hai mối quan hệ lớn: Con đường cất
cánh của Trung Quốc (nhóm dịch Trần Xuân Nhiễm…), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1999; Nguyễn Thế Tăng, Sđd; Bộ biên tập Tạp chí Cầu Thị: Cái
gốc để xây dựng Đảng, nền tảng để cầm quyền, ngọn nguồn của sức mạnh (nhóm
dịch Lê Toan…), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Đỗ Tiến Sâm (chủ biên): Cải
cách thể chế chính trị ở Trung Quốc (1978 – 2003), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 2003.
No comments:
Post a Comment