TNS John McCain
Người dịch: Dương
Lệ Chi
Posted by basamnews on 27/05/2012
Thượng nghị sĩ John McCain nói rằng Hoa Kỳ
vẫn là đối tác được nhiều nước châu Á lựa chọn. Nhưng Washington cần phải đặt
chuyện tranh cãi chính trị của mình sang một bên.
Trong tháng này, tôi đã gặp một phái đoàn
doanh nghiệp đến từ Malaysia, một người trong số họ đã nói với tôi rằng: “Thượng
nghị sĩ McCain, khi chúng tôi nhìn vào nước Mỹ hiện giờ, dường như các ông hoàn
toàn bị rối loạn. Hệ thống chính trị của các ông dường như không có khả năng
đưa ra các quyết định cơ bản để khắc phục các vấn đề tài chính và cho thế giới
thấy quyết tâm để giải quyết vấn đề“. Và nhân tiện, ông ấy cũng đã nói
thêm: “Một số người ở châu Á sử dụng những thất bại đó để phá hoại lòng tin
mà bạn bè của các ông vẫn còn tin vào các ông“. Tôi hoàn toàn đồng ý với
ông ta.
Đây là một vấn đề rất lớn. Và điều này làm
gia tăng nghi ngờ về sự cam kết của chúng ta trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Trong khi nói về việc “chuyển hướng” sang
châu Á là sai lầm, nhưng
ý kiến về việc chúng ta phải cân bằng lại chính sách đối ngoại của Mỹ, chú
trọng hơn nữa vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì hoàn toàn đúng. Nhưng
thách thức quan trọng mà chúng ta phải đối mặt đó là, làm cách nào để cho nỗ
lực tái cân bằng này có ý nghĩa, bởi vì vào lúc này, giữa lúc chúng ta đang gặp
khó khăn về các vấn đề chính trị và tài chính, kết quả là chúng ta hứa hẹn quá
nhiều, mà thực hiện thì quá ít các cam kết mới của chúng ta ở Thái Bình Dương.
Khó có thể phóng đại tính nghiêm trọng về
những sự lựa chọn đặt ra cho chúng ta hiện nay. Chúng ta phải đối mặt với các
quyết định tức thời, sẽ định hướng cho sức mạnh của Mỹ trong khu vực châu
Á-Thái Bình Dương – về mặt ngoại giao, kinh tế, và quân sự – trong nhiều thập
niên tới. Chúng ta phải đi đúng hướng. Nếu đi sai đường, chúng ta sẽ bị vuột
khỏi tiến trình và bị tụt lại phía sau. Tuy nhiên, nếu những quyết định lớn này
được quyết định đúng, chúng ta có thể tạo ra các điều kiện bền vững để mở rộng
sức mạnh của Mỹ, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Mỹ, và để bảo đảm lợi ích quốc
gia của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương.
Cuối cùng, trong bối cảnh châu Á đang thay
đổi, lợi ích của Mỹ ở châu Á vẫn không có gì thay đổi. Chúng ta vẫn vươn tới
các mục tiêu tương tự như chúng ta vẫn luôn hướng tới, đó là khả năng phòng
ngừa, ngăn chặn, và nếu cần, đánh bại trong một cuộc xung đột, bảo vệ các đồng
minh của Mỹ, mở rộng tự do thương mại, thị trường tự do, tự do lưu thông, và tự
do trên vùng trời, vùng biển, không gian, và bây giờ là không gian mạng. Và trên
hết, duy trì sự cân bằng quyền lực để thúc đẩy việc mở rộng nhân quyền, dân
chủ, pháp luật, và các giá trị khác một cách hòa bình, những giá trị mà chúng
ta chia sẻ với những người dân châu Á ngày càng tăng.
Tất cả những lợi ích này không có điểm nào
chống lại bất kỳ nước nào khác, kể cả Trung Quốc. Trung Quốc tiếp tục phát
triển hòa bình đó là lợi ích của chúng ta. Chúng ta phản đối khái niệm cho rằng
Hoa Kỳ muốn kiềm chế Trung Quốc, hoặc [cho rằng] chúng ta đang nhắm tới một cuộc chiến
tranh lạnh mới ở châu Á, nơi mà các nước buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc.
Tóm lại, câu hỏi mà chúng ta cần phải trả
lời là: chúng ta ở Hoa Kỳ, có thể ra các quyết định chiến lược lớn ngay bây
giờ, các quyết định sẽ mang lại sự thành công cho chúng ta về lâu về dài ở châu
Á?
Một trong những quyết định lớn liên quan
đến thương mại. Người ta thường nói rằng công việc của châu Á là kinh doanh,
nhưng khi nói đến thương mại, thì Hoa Kỳ đứng bên lề, và châu Á đang tiến về
phía trước mà không có chúng ta. Sau bốn năm, chính phủ này (ND: ý nói chính
phủ Obama) vẫn chưa ký hay phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do nào cho
riêng mình. Mãi cho đến năm ngoái, họ mới thông qua Hiệp định Thương mại Tự do (FTA)
với Hàn Quốc,
Colombia và Panama mà chính phủ Bush đã đúc kết trước đó. Trong khi đó, từ năm
2003, chỉ riêng Trung Quốc đã ký chín hiệp định thương mại tự do với châu Á và
châu Mỹ Latin. Họ đang đàm phán thêm năm hiệp định khác, và đang xem xét bốn
hiệp định nữa.
Và không chỉ Trung Quốc. Trong tháng này,
Thủ tướng Nhật Bản cũng đã tuyên bố rằng ông muốn Nhật Bản bắt đầu đàm phán một
khu vực thương mại tự do với Trung Quốc và Hàn Quốc. Ấn Độ đang đàm phán một
hiệp ước thương mại tự do với Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không
hoàn thành hiệp ước đầu tư song phương hẹp với Ấn Độ, nói gì đến hiệp ước
thương mại tự do đầy đủ mà chúng ta nên có. Hồi năm ngoái, một báo cáo cho thấy
các nước châu Á đã ký hoặc đang thương lượng gần 300 hiệp ước thương mại, không
có hiệp ước nào trong số đó mà Mỹ đã tham gia. Việc khởi động Hiệp ước Đối tác
xuyên Thái Bình Dương đã làm cho hình ảnh của chúng ta sáng sủa hơn một chút,
nhưng để đi đến một thỏa thuận, có thể phải mất thêm nhiều năm nữa, nếu có điều
đó xảy ra.
Thay vào đó, chúng ta nên đi tới một nghị
trình thương mại song phương, bắt đầu với Ấn Độ và Đài Loan. Chúng ta cũng nên
hành động tích cực hơn trong môi trường đa phương. Quan hệ Đối tác xuyên Thái
Bình Dương đã chia rẽ các nước ASEAN. Chúng ta, hoặc là đưa tất cả các nước
ASEAN vào Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương, hoặc là thúc đẩy một hiệp ước
tự do thương mại chính thức giữa Mỹ-ASEAN. Điểm mấu chốt là, thành công về kinh
tế và chiến lược lâu dài của Mỹ đòi hỏi một chiến lược thương mại đầy tham vọng
ở châu Á.
Một quyết định thứ hai có tác động lớn đó
là, việc bố trí lực lượng của chúng ta trong khu vực. Tất cả chúng ta đều chia
sẻ cùng mục tiêu: tăng cường quan hệ liên minh Mỹ – Nhật, trong khi vẫn duy trì
các cam kết chiến lược của chúng ta trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
thông qua sự hiện diện mạnh mẽ của các lực lượng quân sự triển khai về phía trước.
Tuy nhiên, cũng như nhiều người trong số quý vị, một số vị trong Ủy ban Quân vụ
Thượng viện đã chỉ trích kế hoạch trước đó là, tổ chức lại lực lượng Hoa Kỳ ở
đảo Okinawa và đảo Guam, kế hoạch này hoàn toàn không có khả năng chi tiêu. Chỉ
riêng kinh phí bố trí binh lính ở đảo Guam không thôi cũng đã tăng gấp đôi
trong bảy năm, lên tới hơn 20 tỷ đô la.
Cuộc khủng hoảng này thực sự là một cơ hội
để chúng ta có một cái nhìn rộng hơn về việc sắp xếp lại lực lượng trong khu
vực. Một số nước châu Á thể hiện sự quan tâm mới đối với sự luân chuyển lớn của
lực lượng Hoa Kỳ trong khu vực. Thỏa thuận gần đây là đưa 2.500
lính thủy quân lục chiến Mỹ tới Úc, có thể xem như một mô hình cho các hoạt động tương tự ở
những nơi khác, chẳng hạn như Philippines. Cuối cùng, những điều này và những
phát triển mới khác đã tạo cơ hội để có được suy nghĩ sáng tạo và toàn diện về
việc sắp xếp lại lực lượng quân sự trong khu vực, việc sắp xếp này bao gồm
những thay đổi mới, trong việc tổ chức lại binh lính trên đảo Okinawa và đảo
Guam. Đó là lý do vì sao quốc hội nên có một điều khoản trong Đạo luật Ủy nhiệm
Quốc phòng hồi năm ngoái, cho một đánh giá độc lập về những câu hỏi liên quan
đến việc bố trí lực lượng này.
Vẫn chưa rõ tuyên bố chung gần đây của Hội
đồng Tư vấn An ninh Mỹ – Nhật sẽ phù hợp với yêu cầu đánh giá sâu rộng hơn về
việc bố trí lực lượng của chúng ta trong khu vực như thế nào. Hiện tuyên bố
chung đó đặt ra nhiều câu hỏi hơn là có được câu trả lời – trong đó, các câu
hỏi về ước tính chi phí, các yêu cầu hậu cần, duy trì lực lượng, các kế hoạch
lớn, và đề nghị này liên quan đến khái niệm chiến lược rộng lớn hơn của các
hoạt động trong khu vực như thế nào. Chúng ta cần thực hiện đúng những quyết
định quan trọng này. Và đó là lý do tại sao, ngay cả khi chúng ta tìm thêm chi
tiết trong bản tuyên bố chung, quốc hội sẽ không có bất kỳ quyết định tài trợ
lớn nào cho đến khi chúng ta nhận được và đánh giá các đánh giá độc lập về tình
hình lực lượng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, theo quy định của pháp
luật.
Một quyết định tương tự và lớn hơn nhiều mà
chúng ta cũng cần phải quyết định đúng, đó là chi tiêu quốc phòng. Khu vực châu
Á – Thái Bình Dương chủ yếu là một đấu trường trên biển, nên khả năng phô
trương sức mạnh quân sự của chúng ta phần lớn phụ thuộc vào Hải quân Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, Hải quân vẫn thiếu 313 tàu so với chỉ tiêu. Điều tệ hại hơn là chính
quyền hiện nay đề xuất loại bỏ 7 tàu tuần dương sớm hơn dự định, loại bỏ 2 tàu
vận chuyển loại lớn mà lực lượng Thủy quân Lục chiến cần, và hoãn việc mua lại
một chiếc tàu đổ bộ có boong lớn, một tàu ngầm tấn công loại Virginia, 2 tàu
chiến duyên hải, và tám tàu vận tải tốc độ cao. Hiện chúng ta loại bỏ các con
tàu nhanh hơn là chúng ta có thể thay thế chúng. Cắt giảm khả năng hải quân như
thế mà không có một kế hoạch bù lại, sẽ đặt mục tiêu của chúng ta ở khu vực
châu Á-Thái Bình Dương vào rủi ro lớn hơn.
Và tất cả những điều nói trên hiện đang
đứng trước ảnh hưởng luật mới. Việc cắt giảm ngân sách quốc phòng của chúng ta,
nếu được thực hiện theo quy định của luật mới này sẽ chẳng khác gì một hành
động đơn phương giải trừ quân bị, chắc chắn dẫn đến sự giảm sút thực sự về sức
mạnh quân sự của Mỹ. Một số vị trong quốc hội đã đưa ra đề nghị tránh chuyện tự
động cắt giảm ngân sách quốc phòng theo luật định, nhưng chúng ta không có được
độc quyền về những ý kiến hay (*). Chúng ta muốn ngồi xuống với Tổng thống để
cho ra một thỏa thuận lưỡng đảng, nhưng tổng thống đã từ chối tham gia. Ông ấy
không có đề nghị nào để ngăn chuyện cắt giảm ngân sách quốc phòng mà Bộ trưởng
Quốc phòng của ông gọi là những cắt giảm “chết người”. Trừ khi tổng thống tham gia vào về vấn đề này, nếu không
thì ông ấy sẽ làm tổng thống trong thời kỳ các lực lượng vũ trang của chúng ta
bị thiếu hụt tồi tệ nhất trong giai đoạn lịch sử gần đây.
Ngoài sự hiện diện quân sự, chúng ta cần
duy trì các phương diện ngoại giao ở châu Á. Và ở đây, chúng tôi có một câu
chuyện hay hơn để kể – cám ơn ngoại trưởng của chúng ta rất nhiều, bà đang làm
cho chính sách ngoại giao của Mỹ hiện diện trong khu vực và ảnh hưởng hơn bao
giờ hết. Điều đó nói rằng, chúng ta hiện phải đối mặt với những thử thách lớn,
những thử thách này báo hiệu cho biết Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò gì ở châu Á, cũng
như chúng ta liên quan đến những thách thức của châu Á như thế nào.
Một trong những thử thách đó là biển Đông.
Hoa Kỳ không có yêu sách trong vụ tranh chấp này, và chúng ta không nên đứng về
phía bên nào trong các nước tranh chấp. Tuy nhiên, việc tranh chấp này đi vào
trọng tâm lợi ích của Mỹ ở châu Á – không chỉ vì các thương vụ trị giá 1.200 tỷ
của Mỹ đi ngang qua biển Đông mỗi năm, và cũng không phải vì Philippines, một
trong các nước tranh chấp, là đồng minh của Mỹ, mà là vì rất quan trọng để một
châu Á đang trỗi dậy tránh được những mãng tối của chính sách thực dụng, nơi mà
những nước mạnh muốn làm gì thì làm và những nước yếu hơn thì phải chịu đựng. Cuối
cùng, vụ tranh chấp này không chỉ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, mà là mối quan hệ
của Trung Quốc với các nước láng giềng. Nhưng chúng ta phải hỗ trợ các đối tác
ASEAN của chúng ta – khi họ yêu cầu – để họ có thể nhận ra mục đích của họ về
việc cho ra một mặt trận thống nhất và giải quyết những sự khác biệt của họ một
cách hoà bình, trên cơ sở đa phương.
Một thách thức lớn cho ngoại giao Mỹ là
Miến Điện. Tôi đã đi đến Miến Điện hai lần trong năm
qua.
Chắc chắn là họ vẫn còn một chặng đường dài để đi tới, đặc biệt trong việc ngăn
chặn bạo lực và theo đuổi tiến trình hòa giải thật sự với cộng đồng các dân tộc
thiểu số của đất nước. Nhưng tôi tin là tổng thống Miến Điện và các đồng minh
của ông trong chính phủ chân thành trong cải cách, và họ đang tiến bộ thực sự.
Trong năm qua, tôi đã nói rằng các hành
động cụ thể của chính phủ Miến Điện đối với cải cách dân chủ và kinh tế, cần được đáp lại bằng các hành động đối ứng của Hoa Kỳ
để có thể giúp gia tăng những cải cách này, mang lại lợi ích cho những người
Miến Điện bình thường, và cải thiện mối quan hệ của chúng ta. Cuộc bầu cử mới
đây đã đưa bà Aung San Suu Kyi và Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vào quốc hội,
tôi nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc nên ngưng các biện pháp trừng phạt của Mỹ,
ngoại trừ lệnh cấm vận vũ khí và các biện pháp mà chúng ta duy trì, nhằm chống
lại các cá nhân và các tổ chức ở Miến Điện phá hoại nền dân chủ, vi phạm nhân
quyền, và cướp bóc tài nguyên của quốc gia. Đây không phải là dỡ bỏ lệnh trừng
phạt, mà chỉ tạm dừng. Và bước này cũng như bất kỳ sự nới lỏng các biện pháp
trừng phạt, sẽ tùy thuộc vào sự tiến bộ và cải cách liên tục ở Miến Điện.
Chúng ta cũng phải thiết lập các chuẩn mực
mang tính nguyên tắc, và cả ràng buộc về trách nhiệm cho các hoạt động kinh
doanh của Mỹ ở Miến Điện. Bà Aung San Suu Kyi đã nêu ra những điều phân biệt
giữa các loại đầu tư đúng và sai. Đầu tư đúng đắn sẽ đẩy mạnh khu vực kinh tế
tư nhân ở Miến Điện, mang lại lợi ích cho người dân Miến, và cuối cùng là nới
lỏng sự kiểm soát của quân đội đối với nền kinh tế và chính phủ dân sự. Đầu tư
sai lầm thì sẽ đi ngược lại, tạo ra một tập đoàn chính trị mới và đẩy lùi sự
phát triển của Miến Điện trong nhiều thập kỷ. Vì lý do đó, tôi tin rằng vào lúc
này các công ty Mỹ không nên được cấp giấp phép làm ăn với các công ty chính
phủ Miến Điện, hiện vẫn còn do quân đội điều hành.
Cách doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ không bao giờ
thắng trong một cuộc đua ngược dòng với một số đối thủ cạnh tranh ở châu Á, và
ngay cả châu Âu. Không nên cố đua như vậy. Thay vào đó, họ nên hợp tác với bà
Aung San Suu Kyi và người dân Miến Điện, những người muốn sự đầu tư có trách
nhiệm, tiêu chuẩn lao động và môi trường cao, và ủng hộ nhân quyền và chủ quyền
quốc gia, được xác định làm ăn với người Mỹ là tốt nhất. Mục tiêu của chúng ta
là thiết lập các tiêu chuẩn toàn cầu về trách nhiệm xã hội cho các tập đoàn
công ty ở Miến Điện, một tiêu chuẩn mà chúng ta, cũng như bà Aung San Suu Kyi,
có thể dùng để áp lực lên những công ty khác làm theo chúng ta, và điều đó có
thể trở thành cơ sở cho luật pháp mới Miến Điện.
Những thách thức này chắc chắn là lớn, và
nó đòi hỏi tất cả chúng ta phải đặt những tranh cãi chính trị và ghi điểm sang
một bên, để thúc đẩy một số lợi ích an ninh quốc gia quan trọng nhất của chúng
ta. Tôi tin tưởng rằng chúng ta có thể ngồi lại với nhau và làm điều này. Tôi
tin rằng các tiên đoán về suy sụp của Mỹ một lần nữa được chứng minh là sai. Và
tôi sẽ cho quý vị biết lý do tại sao – bởi vì ngay cả khi chúng ta làm việc để
giữ vững sức mạnh của Mỹ, nhu cầu về sức mạnh quân sự của Mỹ ở châu Á chưa bao
giờ lớn hơn như bây giờ.
Ví dụ, trong chuyến đi thăm Miến Điện vừa
rồi, tôi đã gặp tổng thống Miến. Hầu hết các thành viên trong nội các của ông
cũng có mặt ở đó, và sau cuộc họp, tôi bước tới bắt tay họ. Khi tôi đi xuống,
một người trong số họ đã nói: “Fort Leavenworth, 1982″. Rồi một người khác nói:
“Fort Benning, 1987″. Và cứ tiếp tục như thế. Tôi nhận ra rằng: nhiều người
trong số những người này là các cựu sĩ quan quân đội, những người đã tham gia
vào các chương trình trao đổi quân sự của chúng ta, trước khi chúng ta cắt đứt
quan hệ với quân đội Miến Điện. Ngay cả sau một thời gian như thế, đã trải qua
giai đoạn lịch sử sóng gió như thế, nhưng họ vẫn nhớ đến Mỹ một cách trìu mến,
và họ muốn được gần gũi hơn với Mỹ.
Một ví dụ khác: Vì sao các nhà bất đồng chính kiến và người
xin tị nạn ở Trung Quốc lại chạy vào Đại Sứ quán Mỹ, khi sự an toàn của họ bị đe dọa? Họ không chạy vào Đại
Sứ quán Nga, hay Đại Sứ quán Nam Phi, hay thậm chí các đại sứ quán châu Âu. Vì
sao vậy? Bởi vì chúng ta mạnh? Chắc chắn, nhưng các nước khác cũng là những
cường quốc. Phải chăng vì chúng ta là một nước dân chủ, bênh vực cho các quyền
bình đẳng và nhân phẩm của tất cả mọi người? Chắc chắn là như thế, nhưng các
giá trị này là không phải chỉ có mỗi chúng ta có.
Vậy thì vì lý do gì?
Tóm
lại, đó là vì chúng ta ràng buộc sức mạnh vĩ đại và các giá trị dân chủ của
chúng ta lại với nhau, và chúng ta hành động dựa trên cơ sở này. Đó là vì, trong cộng đồng các quốc gia, thì nước Mỹ vẫn
là nước độc nhất – một nước đặc biệt – một cường quốc dân chủ, sử dụng ảnh
hưởng chưa từng có không chỉ để nâng cao lợi ích hẹp hòi của mình, mà còn đẩy
mạnh một loạt các giá trị siêu việt. Trên hết, đây là lý do vì sao rất nhiều
nước ở châu Á và ở những nơi khác bị chúng ta hấp dẫn – bởi vì chúng ta đem sức
mạnh của chúng ta vào phục vụ cho những nguyên tắc của chúng ta. Đó là lý do
tại sao, trong các chuyến đi của tôi đến châu Á, tôi đã gặp hết người này đến
người, hết lãnh đạo này đến lãnh đạo khác, những người muốn chọn Mỹ làm đối
tác. Họ không muốn ít mà họ muốn nhiều hơn nữa từ Mỹ – thương mại nhiều hơn, hỗ
trợ ngoại giao của chúng ta nhiều hơn, và hỗ trợ quân sự và hợp tác của chúng
ta nhiều hơn.
Và vào lúc mà hầu hết người Mỹ nói rằng, họ
đang mất niềm tin vào chính phủ của chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng, có hàng
triệu người trên thế giới, đặc biệt ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, những
người này vẫn còn tin tưởng vào Hoa Kỳ, và họ vẫn muốn sống trong một thế giới
được định hình bởi sức mạnh của Mỹ, các giá trị Mỹ, và sự lãnh đạo của Mỹ. Với
rất nhiều người đang trông cậy vào chúng ta – và không có cách nào để loại
chúng ta ra ngoài – ít nhất chúng ta có thể làm là nỗ lực hơn nữa để xứng đáng
với sự kỳ vọng mà họ đặt vào chúng ta.
Tác giả: Ông John McCain là Thượng nghị sĩ cao cấp của Mỹ từ bang
Arizona và là thành viên cao cấp của Ủy ban Quân vụ Thượng viện. Bài viết này dựa trên bài phát biểu của ông tại Trung
tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Washington, DC trong tháng này.
———-
Ghi chú: Để hiểu đoạn này, cần hiểu bối cảnh cắt giảm ngân sách ở
Mỹ. Đề nghị đưa ra là sẽ cắt 1.200 tỉ trong 10 năm tới. Trong khi Đảng Cộng hòa
muốn cắt ngân sách liên quan đến các chương trình xã hội (non-security
programs), thì Đảng Dân chủ muốn cắt ngân sách liên quan đến các chương trình
an ninh (security programs), như ngân sách quốc phòng. Cả hai đảng không thể đi
đến một thỏa thuận, nên theo luật mới ra cách đây không lâu là sẽ tự động cắt,
nghĩa là sẽ chia đều ra, mỗi bên bị cắt phân nửa, non-security programs: 600 tỉ
và security programs: 600 tỉ, trong đó, ngân sách quốc phòng có thể bị cắt 500
tỉ.
Ông John McCain thuộc Đảng Cộng hòa và đã
từng là một sĩ quan hải quân, dĩ nhiên là ông phản đối việc cắt giảm ngân sách
quốc phòng. Ông nói: “Một số vị trong quốc hội đã đưa ra đề nghị tránh
chuyện tự động cắt giảm ngân sách quốc phòng theo luật định, nhưng chúng ta
không có được độc quyền về những ý kiến hay”. Câu này có nghĩa là, ông cho
chuyện không ủng hộ cắt giảm ngân sách quốc phòng của những người trong quốc
hội là ý kiến hay, bởi vì đó cũng là ý kiến của ông.
Nguồn: The Diplomat
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
No comments:
Post a Comment