Người Việt
Tuesday,
May 22, 2012 3:31:40 PM
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng
không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng
cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1. Tài liệu của
Không Lực Hoa Kỳ - chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi
trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không
lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích
của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ. Trong khi đó, nhiều
người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119
đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội
Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29
tháng 4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và
bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong
một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha
Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng
4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi
chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những
người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến
giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là
thua, nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh.”
2. Tài liệu trích
trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) : Nhưng sự bất ngờ
cho cộng sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến
sĩ của Chiến Ðoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân
khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ
“đón” quân cộng sản. Trong ngày 29 tháng 4, Tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm
đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo
vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy Dù, Biệt Cách, Biệt
Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến... phải ngăn chận quân cộng sản kéo vào Saigon
từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh... Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn
vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn
Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ
hai ngả vào Saigon.
Nhưng
dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, Tướng Phát và những người đầu hàng. Họ
vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục
Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một
và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này
không có... radio! Họ không cần biết rằng quân cộng sản đang thắng thế. Họ
không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng
miền Nam cho cộng sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt
vọng, không còn một chút hy vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến
đấu chống Cộng và tiêu diệt quân cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư
tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù cộng sản và sẵn sàng nhả
đạn. Các xe tăng cộng sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành
phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn,
đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong
thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng cộng sản bị trúng đạn
cháy đen nằm rải rác từ Ngã Tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường
Cách Mạng... Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn
thủng như bằng... bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như
vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106
ly (?),để bắn xe tăng. Ðạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã
làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính cộng sản ở
trong xe tăng.
Cánh
quân cộng sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống
trước Sở Thú để tiến vào dinh Ðộc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù
bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu
đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Ðại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ
Thống Nhất, nhà thờ Ðức Bà. Hầu như những cánh quân cộng sản đầu tiên tiến vào
Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7
giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng,
hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính
cộng sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon.
Tất
cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ
chỉ huy cộng sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho
Tướng Lâm Văn Phát, Thiếu Tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù
ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc
đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn
trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.
Một
câu chuyện khác do Tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện
thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu
thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu
tướng,” rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.
Khi
vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Ðô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh
cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng
thành vòng tròn và hờm súng vào... lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể.
Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến
giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em
ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các
quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Ðến 1 giờ trưa, Tướng
Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Ðô cho Tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó Tướng Ba Hồng
mời Tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng
quân nằm kín chung quanh cột cờ. Ðáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang
Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã
thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của cộng sản (Tướng Lâm Văn Phát đã từ
trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)
Nhưng
hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30
tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn
viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, cộng sản đã cầm chắc cái thắng
trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với
các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán.
Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng
phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má...
3. Tài liệu: báo
Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter
Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Ðiệu Nam Việt Nam” “...Nam Việt Nam
đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ
giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu
dài như vậy... Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số
trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân
đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không
còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh
nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa
lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu
người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người
Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của
quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu
ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt
cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa
chắc đã là phía tốt hơn.”
4. Tài liệu của ký
giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon
ngày 29 và 30 tháng 4, 1975. Thứ Hai, 28 tháng 4, 1975 Saigon sáng nay
yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành
phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt
vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Ðôi lúc họ còn cười với
nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số
phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ
nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một
trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả
lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng
chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu,
vì Hương hay vì Minh.”
Sau
khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt
trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần
Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới
khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm
với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5
xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn
trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ
trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các
sinh viên trường Võ Bị Ðà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận
địa. “...Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên
anh dũng của Trường Võ Bị Ðà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi
như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”
Một
đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng
ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các
anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết
chứ!” “Vì sao?” “Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản!”.... Các
xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Ðông, qua tỉnh lộ Thủ Ðức và
Biên Hòa...
Bộ
Binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm
Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ
ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có
Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do.
Lữ
Ðoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Vinh, sĩ quan to con,
mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị
thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon.
Một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến
đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ
hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ
trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Ðến khi hết đạn, họ
đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự
sát. “Ðến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Ðỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi
trường, tụ lại quanh Ðại Tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có
ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Ðến 10 giờ đêm, Ðại Tá Vinh cho lệnh các binh sĩ
chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng...” Darcourt cho
biết Ðại Tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
No comments:
Post a Comment