Phạm
Hồng Sơn
Tháng
5 13, 2012
Mới hơn 4
tháng đầu năm 2012 ở Việt Nam đã xảy ra ba vụ cưỡng đoạt đất có đổ máu: Tiên Lãng (Hải Phòng):
05/01/2012, Văn Giang
(Hưng Yên): 24/04/2012 và Vụ
Bản (Nam Định): 09/05/2012.
Đất
là một trong những tài nguyên hiếm, nguồn lực cơ bản cần cho sự sinh tồn, phát
triển của con người. Đối với Việt Nam, nước có mật độ dân số đứng vào nhóm chật
chội trên thế giới[i], thì đất lại càng hiếm và quí giá hơn nữa.
Theo
kinh tế học, có hai cách cơ bản để việc phân bổ các nguồn lực hiếm trong xã hội
được công bằng, đó là thông qua: thị trường và nhà nước.
Cách
phân bổ của thị trường có thể tóm gọn qua cụm từ đầy tính gợi hình của Adam
Smith: “bàn tay vô hình” (invisible hand). Bàn tay phân bổ vô hình chính là sự
tương tác, tự điều phối, cân chỉnh của vô số những dự định, ước muốn vô cùng đa
dạng, luôn biến đổi, không thể biết hết, và không một lực lượng nào có thể kiểm
soát được hết của con người trong thị trường, gọi là quan hệ cung-cầu, trên hai
nguyên tắc có tính nền tảng là sự tự nguyện (không cưỡng ép) và cùng hưởng lợi
(hai bên cùng thấy có lợi). Bình thường, khi một giao dịch về đất trên
thị trường được thực hiện cũng đồng nghĩa với việc cả bên bán (giao) và bên mua
(nhận) đều hài lòng vì đều đã thu được lợi ích (hoặc ít ra là họ tự nghĩ rằng
đã thu được lợi ích) qua giao dịch trên cơ sở quyết định cuối cùng là của chính
họ. Nhưng bản chất của con người là bất định và bất toàn nên sự phân bổ của thị
trường sẽ có những khiếm khuyết như lừa đảo, cưỡng ép, nhầm lẫn, bất lực v.v.
Chính
những khiếm khuyết đó của thị trường mới làm cho cách phân bổ thông qua nhà
nước trở nên cần thiết và quan trọng. Nhưng vai trò quan trọng đó của nhà nước
không có nghĩa, như đã từng bị hiểu lầm, rằng nhà nước phải thay thế hoàn toàn
thị trường hay phải can thiệp vào tất cả các phân bổ (giao dịch) của thị
trường. Bởi nhà nước cũng là những con người cụ thể, nếu lại được hoàn toàn
quyết định cho các giao dịch thì cũng sẽ lại phạm vào những khiếm khuyết của
thị trường. Nói cách khác sự phân bổ của nhà nước đối với các nguồn lực hiếm
trong xã hội để đảm bảo tính công bằng thì phải và chỉ là để trám sửa (bổ khuyết
và sửa chữa) các khiếm khuyết của thị trường: giữ cho mọi giao dịch được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện, minh bạch. Nhà nước phải sẵn sàng đứng giữa, chứ
không phải đứng trên, các bên có xung đột trong một phân bổ (giao dịch) của thị
trường, để lắng nghe các bên, tìm hiểu và cuối cùng là phán xét không thiên vị.
Nghĩa là để có thể có được vai trò “trám sửa” đó, nhà nước (dù hiểu theo nghĩa
nào) phải ít nhất là một nhà nước không bị khống chế bởi (hoặc không phải của)
một cá nhân, một đảng phái hay một nhóm người nào trong xã hội – thị trường.
Việt
Nam hiện nay, ngoài yếu tố đất chật người đông, vẫn thuộc những nước đang phát
triển, nghĩa là các tiềm năng, nhu cầu và sự gia tăng về kinh doanh còn rất lớn
do đó điều chắc chắn là các giao dịch, phân bổ về “đất” (một trong bốn thành tố
cơ bản của nguồn lực cần cho kinh doanh: đất, vốn (tiền), nhân công và tinh
thần kinh doanh) sẽ còn gia tăng rất mạnh. Và đương nhiên các giao dịch, phân
bổ bất thường, bất công về đất trên thị trường cũng sẽ gia tăng và cần phải có
tác động, điều chỉnh của nhà nước để lập lại công bằng. Nhưng đáng tiếc, cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế,
nhà nước ở Việt Nam hiện nay chỉ là một cơ quan cấp dưới của một đảng chính trị
hiện tồn hợp pháp duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam – một nhóm người chỉ
chiếm khoảng 03% dân số hoặc chiếm ít hơn nữa nếu chỉ tính 14 người trong Bộ
Chính trị. Một hệ thống quyền lực nhà nước từ trung ương tới địa phương
và ở mọi ngành quyền lực, từ lập pháp, hành pháp hay tư pháp cho tới cả hệ
thống báo chí (“quyền lực thứ tư”) đều chỉ do một tổ chức (đảng) lãnh đạo, bổ
nhiệm hay đề cử thì đương nhiên hệ thống nhà nước đó sẽ không thể có vị thế độc
lập hay trung gian (dù chỉ là tương đối) trên thị trường-xã hội được. Chưa kể
các thành viên, những con người luôn có những ham muốn tự nhiên về kinh tế, của
hệ thống nhà nước đó lại rất có thể chính là một chủ thể trong các giao dịch,
phân bổ đất trên thị trường. Do đó, một điều tất
yếu là chừng nào Nhà nước Việt Nam hiện nay còn là của một nhóm người (không do
toàn dân lựa chọn và bầu ra) và kinh tế còn phát triển thì những giao dịch,
phân bổ bất công về đất (và nhiều nguồn lực quí hiếm khác như rừng, biển, đảo,
kể cả chủ quyền quốc gia v.v.) sẽ còn tiếp diễn, gia tăng và không thể có cơ
chế hữu hiệu để lập lại công bằng. Và xấu hơn nữa là nhà nước hiện nay đương
nhiên sẽ nghiêng về phía, hoặc đồng thời là, những chủ thể có sức thao túng về
kinh tế hay chính trị (suy cho cùng cũng là kinh tế) trên thị trường, không kể
là nội tộc hay ngoại bang.
Trở lại ba vụ cưỡng đoạt đất có đổ máu ở trên, diễn tiến trong
cả ba vụ đó đều cho thấy rất rõ ràng Nhà nước Việt Nam đã không chỉ không giữ
vai trò độc lập (đứng giữa) cho các bên trong tranh cãi về đất mà còn dùng vũ
lực để buộc một bên (những người nông dân) phải từ bỏ quyền sử dụng đất hợp
pháp cho phía bên kia (các thành phần kinh doanh đang cần đất). Thực tế này một lần
nữa chứng minh rằng một đảng, bất kể với tên gọi và danh nghĩa gì, khi đã trở
thành một tổ chức siêu quyền lực nằm trên hệ thống nhà nước thì việc sử dụng
cái quyền lực nhà nước đó vào việc gì ( kể cả để huy động toàn dân chống đế
quốc hay cấm toàn dân chống ngoại xâm; để cấm hoàn toàn tư nhân kinh doanh hay
tha hồ thao túng, câu kết với giới kinh doanh, v.v.) là hoàn toàn tùy thuộc vào việc đảng đó thấy lợi hay hại cho quyền lực
của nó mà thôi. Việc cướp đất của người này để cấp cho người kia trong
những ngày qua chỉ là một trong vô vàn những ý định tự quyết của cái đảng độc
quyền đó. Ngay cả lương tâm, nhân phẩm, quyền con người và lòng yêu nước cũng
còn bị trấn áp, khinh rẻ, bác bỏ thì còn thứ gì cái đảng đó không dám chiếm
đoạt? Cái bi kịch dở khóc dở cười của hai phóng viên chính thống
trong vụ Văn Giang vừa qua cũng chỉ là hệ quả nhỏ của cái logic tất yếu trong
cướp đoạt. Không bao giờ có kẻ cướp nào lại để cho người khác chứng kiến, ghi
lại cảnh cướp đoạt của chúng.
Đương
nhiên trong kỷ nguyên thông tin Internet hiện nay, ngoại trừ những kẻ được lợi
lộc từ kẻ cướp hoặc có đầu óc không bình thường, không ai lại lên tiếng ủng hộ
sự “cướp đoạt”.
Tuy
nhiên, sự phản đối cướp đoạt dù căm phẫn, thống thiết đến mấy, cũng khó có thể
hơn được mũi tiêm giảm đau cho con bệnh đang đau ruột thừa, nếu cứ mãi tránh né
cái nguyên nhân gốc rễ của sự cướp đoạt. Những an ủi, động viên nạn nhân bị
cướp đất của ngày hôm nay nếu lại góp thêm phần củng cố cho niềm tin yêu, sự
kính trọng vào một đảng, một lãnh tụ đã từng gây ra bao cái chết oan khiên cho
nông dân và đã nhón trọn những quyền, những tự do ít ỏi trong tay người dân
sang hết tay đảng, thì cũng chẳng khác nhiều việc nói với cả dân làng đang nháo
nhác tìm công lý rằng cứ yên tâm vì mọi chuyện đã có mẹ con Lý Thông lo rồi.
Đương
nhiên sẽ là hoang tưởng nếu cho rằng phương thuốc cho những căn bệnh của đất
nước có thể dễ dàng tìm thấy ngay trong một lần hay có thể đến chỉ từ một lối
nghĩ, một cách làm. Nhưng nếu cứ nhất định không
chịu tìm, không chịu thừa nhận nguyên nhân gốc của căn bệnh thì ước mong chữa
trị bệnh cũng chỉ là một hoang tưởng hoặc một sự lừa dối mà thôi.
Việc tìm ra nguyên nhân sâu xa của bệnh tật, bất kể của con
người hay xã hội, luôn phải là việc, là trách nhiệm hàng đầu của giới có học. Vậy
khi giới “tinh hoa” của một xã hội đầy bệnh tật lại lảng tránh, lại không chịu
nói thẳng ra cái nguyên nhân sâu xa của tình trạng bệnh hoạn của xã hội thì
tầng lớp ít học, những nạn nhân chân lấm tay bùn của xã hội còn biết trông cậy
vào ai? Nhưng chính đó lại là một bi kịch,
một oái ăm của mọi xã hội bệnh hoạn kiểu toàn trị: sự bệnh hoạn xã hội không
chỉ “trùm” lên giới có học mà còn “ăn” cả giới “tinh hoa”. Họ vừa là nạn nhân
lại vừa là thủ phạm của xã hội bệnh hoạn. Nhưng đó chưa hẳn đã là bi kịch chua
chát nhất. Có bi kịch nào chua chát hơn người phải sống mòn trong chiếc lồng
kiên cố lại vẫn nhìn kẻ đã tạo ra chiếc lồng với đôi mắt trìu mến và biết ơn vô
hạn?
Nếu
thật lắng tâm chúng ta có thể nghe thấy trong không gian thăm thẳm vẫn vẳng lên
đâu đó những tiếng kêu, tiếng than da diết, não nề. Nhưng khó có thể biết được
đó là những tiếng ai oán của ai, của người nông dân mới bị cướp đất hôm qua ở
Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản hay của những nhà nông chịu khó, giỏi giang của
dân tộc đã bị cướp đất, bị nhục mạ, bị cướp cả mạng sống cách đây hơn nửa thế
kỷ, hay của ai khác nữa? Nhưng cái rất đau xót lại là
nhiều người trong số họ đến chết vẫn tin, vẫn ngưỡng mộ, tôn kính cái tổ chức,
cái con người đã dựng ra cái nhà nước chỉ biết phục vụ cho một đảng, “chỉ biết
còn Đảng còn mình” – nguyên nhân gốc của những thống khổ, những băng hoại hết
sức nan giải từ hơn 60 năm qua. Người nông dân, kẻ ít học, có mấy ai
không nghe, không tin vào lời của những người, những tên tuổi có những bằng
cấp, những danh vị, học vị luôn gợi ra sự uyên thâm, lỗi lạc như giáo sư, tiến
sĩ, nhà nghiên cứu, nhà sử học…Thế mà rút cục những lời đó (nếu) lại không phải
là sự thật hoặc chỉ là một nửa sự thật, thì còn đau xót nào lớn hơn?
©
2012 pro&contra
[i] Mật độ dân số của Việt Nam được xếp hạng
46/239 (Theo Countries of the World) hoặc 52/242 (Theo Wikipedia)
------------------------------------------------
XEM THÊM :
Nguyễn Minh Cần - RFI
Thứ năm 26 Tháng
Tư 2012
No comments:
Post a Comment