D I Ễ N Đ À N
Tâm thức nô lệ, tâm
địa tôi tớ không xa lạ gì với người Cộng sản. Trên lý thuyết, đảng Cộng sản chủ
trương tạo ra cho thành viên của mình một bản tính mới, bên cạnh nhân tính vốn
bẩm sinh nơi mọi con người. Bản tính mới ấy gọi là “đảng tính” vốn đòi hỏi tuân lệnh cấp trên vô điều kiện.
Điều
này đã bị vạch trần trong chương 1 cuốn “Cửu Bình ” (Chín bài bình luận
về đảng CS Trung Quốc). “Đòi hỏi đầu tiên và quan trọng nhất của mọi thành
viên ĐCS và những ai bị ĐCS thống trị là phải tuân lệnh vô điều kiện. Ở Trung
Hoa, phần lớn dân chúng đều biết đến nhân cách kép của các thành viên ĐCS.
Trong khung cảnh riêng tư, họ là những con người bình thường với những cảm xúc
hạnh phúc, giận dữ, buồn phiền và hân hoan. Họ có những ưu điểm và khuyết điểm
của con người. Họ có thể là cha mẹ, là vợ chồng hay là bạn hữu. Nhưng đặt lên
trên bản tính và những tình cảm con người là đảng tính, mà theo những đòi hỏi
của ĐCS, là một cái gì siêu vượt nhân tính. Vì thế, nhân tính trở thành tương
đối và có thể thay đổi, đang khi đảng tính trở thành tuyệt đối, không thể hoài
nghi hay thách thức được. Suốt cuộc Cách mạng Văn hoá, cha con hành nhau, vợ
chồng đấu nhau, thầy trò phản nhau, mẹ con tố nhau như kẻ thù… là chuyện quá
thông thường. Đảng tính đã thúc đẩy các tranh chấp và hận thù trong những
trường hợp ấy... Quyền lực của đảng tính trên cá nhân là kết quả của những khóa
nhồi sọ trường kỳ của ĐCS. Kiểu huấn luyện này khởi sự từ trước tuổi đi học và
tại trường mẫu giáo, nơi mà các câu trả lời được khen thưởng vì đúng theo ý
đảng chứ không vì theo lẽ thường hoặc theo nhân tính của một trẻ nhỏ. Học sinh
nhận được sự giáo dục chính trị khi chúng vào tiểu học, trung học cũng như suốt
con đường đại học, và chúng phải học những câu trả lời chuẩn theo đúng ý đảng,
bằng không thì chẳng được đi thi và tốt nghiệp. Một đảng viên phải luôn nhất
quán với đường lối Đảng khi nói công khai, dù trong riêng tư mình cảm nghĩ như
thế nào”.
Những
điều nói trên về Trung Quốc và ĐCS Trung Quốc cũng thấy y chang tại Việt Nam và
ĐCS Việt Nam. Tác nhân khởi thủy và gương mẫu điển hình cho đảng
tính (tức tâm thức nô lệ) này là Hồ Chí Minh. Chính ông ta từng
tuyên bố: “Ai thì có thể sai chứ các đồng chí Stalin và Mao -hai tên đại đồ tể
của nhân loại- thì không thể nào
sai được”. Nhận lệnh Stalin và học đòi Mao, Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc Cải
cách Ruộng đất giết trực tiếp và gián tiếp nửa triệu đồng bào ruột thịt, bắn bỏ
ngay cả vị ân nhân của ông và của cách mạng là bà Nguyễn Thị Năm (theo lệnh các
đồng chí cố vấn Trung cộng). Tiếp đến bắt chước Mao phát động phong trào
"Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" (1956) mà dựng lên phong
trào “Trăm hoa đua nở” để thanh trừng giới trí thức trong vụ Nhân văn Giai phẩm
(1958). Trường Chinh cũng noi gương ấy mà đấu tố cha mẹ. Tố Hữu cũng kêu gọi
“Giết, giết nữa, bàn tay không ngơi nghỉ” để “thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin
bất diệt”! Trong biến cố “long trời lở đất” ấy, đảng đã thúc đẩy, cưỡng bức
hàng vạn người Việt đấu tố nhau, hành hạ nhau, phản bội nhau (ngay cả trong gia
đình) để thực hiện cái gọi là “đạo đức cách mạng”....
Thứ “đạo đức cách mạng” tạo nơi đảng viên tâm thức nô lệ,
tâm địa tôi tớ, mù quáng vâng lệnh cấp trên như thế -dẫu có phải tác hại đến
thân thuộc, đồng bào, tổ quốc mình- vẫn còn hoành hành. Có điều là -như vừa
thấy- cấp trên ấy có khi là đảng CS đàn anh (cụ thể là Tàu cộng), có khi là
đảng viên thượng tầng, có khi lại là “nhóm quyền lợi”, tư bản trắng hay tư bản
đỏ nào đó...
Không như thế thì
tại sao
Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đã vội ra công hàm 1958 công nhận hải phận 12 hải
lý của Trung Quốc bao gồm 2 quần đảo nước Việt? Tại sao Bộ Chính trị đã im lặng
khi Tàu cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988, thời gian gần đây còn
bỏ tù các công dân phản đối Bắc phương xâm lược và cấm tưởng niệm các tử sĩ đảo
Gạc Ma ?
Không như thế thì
tại sao
Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã sang khấu đầu tạ lỗi, bái yết thần phục Giang
Trạch Dân và Lý Bằng tại Thành Đô năm 1990 để “mở màn cho một thời kỳ Bắc thuộc
nguy hiểm” (lời ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch), trong đó Trung cộng thao túng
nền chính trị VN cho đến tận bây giờ. Tại sao Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng
ngay từ năm 2001 đã đồng ý cho Trung Quốc (trong đó có những công ty bộn tiền) vào
Tây Nguyên khai thác bauxite, ém quân phục sẵn, treo quả bom bùn đỏ trên đầu
dân Nam bộ, bất chấp vô vàn lời khuyên, kiến nghị, thậm chí kháng thư của nhiều
tướng lãnh, chuyên gia, nhân sĩ và dân thường?
Không như thế thì
tại sao
Nguyễn Tấn Dũng và bộ sậu, ngay từ 2004 đã cho tiến hành nghiên cứu dự án điện
hạt nhân tại Ninh Thuận và đến năm nay thì quyết tâm làm điện nguyên tử nhờ
chuyên viên và kỹ thuật Nga lẫn Nhật, bất chấp sự cố nổ lò phản ứng tại hai
quốc gia này, bất chấp các điều kiện hết sức bất thuận lợi (về tài chánh, khả
năng chuyên môn, lương tâm liêm chính và ý thức trách nhiệm) phía VN, bất chấp
kiến nghị cảnh báo của nhiều nhà khoa học tâm huyết và nhận định phản bác của
nhiều công dân trong xã hội?
Rõ
ràng đối tượng để các lãnh đạo Hà Nội vâng lệnh và phục vụ không phải là nhân
dân như khẩu hiệu “đảng CS là của dân, vì dân” và “cán bộ là đầy tớ nhân dân”
luôn được tuyên truyền ra rả.
Đến
giới gọi là “đại biểu” đang ngồi trong tòa nhà uy nghi mang tên Quốc hội, họ
hầu như luôn luôn đạp dưới chân danh hiệu tôn quý “cơ quan quyền lực cao nhất”
và quên đi thiên chức “thay mặt nhân dân, đồng bào” để trở thành “đảng biểu”
vâng lời tối mặt Bộ chính trị. Họ từng mau chóng thông qua hai văn kiện hết sức
mờ ám và bất bình đẳng: Hiệp định biên giới năm 1999 và Hiệp định vịnh Bắc bộ
năm 2000, bất chấp phản đối của nhiều tầng lớp nhân dân lúc đó. Đến vụ bauxite,
khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố việc khai thác thứ quặng này tại Tây
Nguyên là “chủ trương lớn của Đảng” ngày 04-02-2009, thì Ủy ban Thường vụ
Quốc hội cũng lập tức cho ý kiến ủng hộ dẫu có thể đoán biết nguy cơ bom bùn đỏ
và nguy cơ Tàu cộng xâm nhập yếu huyệt Tổ quốc. Tới ngày 25-11-2009, gạt bỏ
những lời chỉ trích đến từ phía các cử tri từng “bầu” mình, Quốc hội VN đã chấp
thuận dự án xây 2 nhà máy điện hạt nhân. Hãng thông tấn AFP cho hay hôm đó dự
luật về điện hạt nhân đã được 77% số đại biểu thông qua, dù tuyệt đại đa số họ
chẳng hề biết gì về các nguy cơ hay bất lợi của kỹ thuật này. Họ chỉ cần biết
đảng muốn là đủ!
Nhưng phải nói thứ
đầy tớ cần mẫn nhất hiện thời -không phải của dân như khẩu hiệu “vì nước quên
thân vì dân phục vụ” nhưng là của đảng đúng với danh hiệu “thanh gươm và lá
chắn bảo vệ chế độ” được Tổng bí thư phong tặng hôm 02-04- đó chính là công an! Mấy thập niên gần
đây, kể từ khi mở cửa kinh tế, lực lượng này đã bày tỏ lòng khuyển mã với đảng,
với các đảng viên cao cấp, với các đảng bộ địa phương, với nhà cầm quyền sở
tại… qua việc đàn áp hàng ngàn cuộc biểu tình đình công của công nhân, giải tán
hàng ngàn cuộc tụ tập khiếu kiện của nông dân, ngăn chặn hay sách nhiễu hàng
chục cuộc xuống đường chống xâm lược của nhân dân, đánh đập thân thể hay cướp
bóc cơ sở của các vị tu hành (như linh mục Hoa ở Kontum, linh mục Bình tại Hà
Nội…); qua việc hỗ trợ bọn cường hào ác bá, nhóm đại gia tư bản… để cướp công
sức và tài sản của nhân dân, như tại Tiên Lãng Hải Phòng đầu năm nay, và tại
Văn Giang, Hưng Yên cách đây một tuần, với tất cả sự tàn bạo được buông cương,
đúng với châm ngôn tự đặt: “Chỉ biết còn Đảng còn
mình” .
Theo bình luận gia
Ngô Nhân Dụng,
“đó là một khẩu hiệu làm cho tất cả những người công an phải cảm thấy nhục
nhã… Nỗi nhục nhã thứ nhất là nó đặt ra một điều kiện tồn tại cho bản thân mỗi
người công an và tất cả lực lượng công an dính chặt với sinh mạng của một đảng
chính trị chứ không nhân danh một nghĩa vụ nào cao hơn, lớn hơn. Mỗi đảng nào
cũng chỉ là một nhóm người. Gắn bó sinh mạng của mình vào một nhóm người tức là
chịu làm tay sai, làm “chó săn” cho bọn họ, chứ không phục vụ một lợi ích nào
của chung quốc gia, dân tộc. Nỗi nhục thứ hai là cái tiếng xấu “bất trung, bất
nghĩa” không thể chối cãi được. Những người công an sống bằng đồng tiền do hơn
80 triệu người dân đóng góp, nếu không có người dân làm việc, tạo ra của cải,
đóng thuế, thì tất cả cái đảng mà họ đang bảo vệ chỉ toàn những người chỉ tay
năm ngón không thể làm gì ra của cải, tiền bạc, để trả lương cho họ nuôi vợ
con. Nhưng họ lại đi lo bảo vệ một bọn ăn trên ngồi chốc đó, không cần biết đến
nguyện vọng của người dân, giẫm chân trên nỗi thống khổ của người dân, tạo thêm
bao nhiêu cay đắng khác cho dân… Nỗi nhục nhã thứ ba là chính những người công
an đang bị những kẻ nắm đầu họ coi họ chỉ toàn là một bọn không biết suy nghĩ;
một đám ngu si. Ngu si vì chỉ biết tham lợi trước mắt mà không trông thấy mối
nhục muôn đời; nhắm mắt nghe lệnh bảo vệ một chế độ mà không tự hỏi tương lai
chính mình và con cháu mình sẽ ra sao”.
Cũng cần nói thêm
vài hạng nô bộc khác.
Đó là giới báo chí truyền thông lề phải.
Mang danh hiệu cao quý “Tôi tớ của sự thật”, họ đã trở thành “Tôi tớ của đảng”
với niềm tự hào đáng xấu hổ: “Báo chí cách mạng”. Báo chí cách mạng nên phải
theo đạo đức cách mạng, phải có những bài báo tâng bốc lãnh đạo, tô hồng chính
sách, ủng hộ chủ trương, vu khống chửi rủa kết án các công dân bị đảng coi là
“phản động”, hoặc phải lặng im thin thít khi nhân dân bị đàn áp vì phản đối trò
cướp bóc của các đảng viên tư bản như trong vụ Ecopark mới rồi.
Một giới nữa là
những lãnh đạo tinh thần mà tinh thần đã bị đảng lãnh đạo. Là “ngôn sứ của
Thiên Chúa”, “sứ giả của Đức Như Lai”, đáng ra họ phải dám lên tiếng cho sự
thật và bênh vực cho lẽ phải, trước ai cả và hơn ai cả, như tín đồ lẫn người
dân mong đợi trong cái xã hội tràn ngập gian dối và bất công này. Nhưng vì muốn
an thân sung sướng, sợ bị phanh phui đời tư, hoặc ưa thành công bề ngoài như tổ
chức lễ hội linh đình, xây dựng cơ sở hoành tráng, họ đã dửng dưng trước nỗi
khổ của đồng bào hay đồng đạo, lặng im trước sai lầm và tội ác của cường quyền,
bất biết những nguy cơ của dân tộc và đất nước.
Nếu
các lãnh đạo tinh thần mà như thế, họ đã đồng lõa với tội ác lớn nhất của đảng
Cộng sản: làm cho toàn dân u mê đầu óc, ủy mị tâm hồn và bạc nhược ý chí, nghĩa
là trở thành một đám tôi tớ, bầy đàn nô lệ, để đảng có thể thống trị dài lâu.
Ban
Biên Tập
DOWNLOAD
:
.
.
.
No comments:
Post a Comment