Những vấn đề chính
trong quan hệ ba bên Trung-Mỹ-Nga hiện nay
Phùng Thiệu Lôi - Aisixiang
Lê Thị Thanh
Loan, biên dịch
Trên
thực tế, vẫn luôn có nhiều tranh cãi trong giới học thuật về thuật ngữ “quan hệ
ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga”. Trước hết, quan hệ ba bên Trung-Mỹ-Nga hiện
nay có phải là tam giác đối địch giữa Trung Quốc, Mỹ và Liên Xô trong Chiến
tranh Lạnh không? Tác giả cho rằng có rất nhiều điểm khác biệt. Dù là ý chí chủ
quan hay cấu trúc môi trường khách quan thì cũng đều đã trải qua những thay đổi
mang tính căn bản. Đây cũng có thể là lý do khiến mọi người thích dùng “quan hệ
ba bên” hay “quan hệ tam phương” hơn là “quan hệ tam giác” với hàm ý mang tính
đối đầu chiến lược. Vấn đề mấu chốt là hy vọng có sự khác biệt ở đây.
Tiếp
đó, liệu có phải quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ, Nga mang một vài hình thức
biểu hiện cụ thể phổ biến trong quan hệ quốc tế? Ví dụ như, có “diễn đàn chính
thức ba bên” không? Giữa ba bên có một mối quan hệ kinh tế và thương mại độc
đáo không? Có những hiệp định quốc tế riêng biệt để hạn chế lẫn nhau không?
Không có. Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận là Trung Quốc, Mỹ và Nga
đang tương tác với nhau một cách vừa tế nhị nhưng cũng vừa thu hút sự chú ý. Dù
sự tương tác giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga lúc gần lúc xa, yêu ghét lẫn lộn, khi
sâu sắc khi lạnh nhạt, thì cũng đều có tác động sâu sắc đến tình hình quốc tế ở
cả hiện tại và tương lai.
Trên
thực tế, “quan hệ ba bên” hay “quan hệ tam phương” là một phạm trù tương đối cơ
bản trong lịch sử quốc tế. Đằng sau bất kỳ mối quan hệ song phương hay đa
phương nào cũng đều tồn tại cái bóng của một hay một vài quốc gia đóng vai trò
là “bên thứ ba”. Từ đó, hãy bàn về ba vấn đề liên quan.
Vấn
đề thứ nhất: Quan hệ ba bên Trung-Mỹ-Nga sẽ trở lại thời kỳ Chiến tranh Lạnh
hay sẽ là một cuộc “Chiến tranh Lạnh mới”?
Chiến
tranh Lạnh trong thế kỷ 20 có ba yếu tố cụ thể.
Sự
đối lập cao độ về ý thức hệ là một đặc điểm lớn của Chiến tranh Lạnh. Nhưng liệu
đây có phải là mô hình quốc tế mà hậu thế có thể sao chép? Ta có thể tiến hành
quan sát kỹ hơn từ ít nhất hai khía cạnh.
Thứ
nhất, bất kể hệ thống Xô Viết tốt xấu ra sao, thì liệu đó có phải là “chủ nghĩa
xã hội tiêu chuẩn” không? Nói cách khác, mặc dù Chiến tranh Lạnh đầy rẫy sự cạnh
tranh về ý thức hệ, nhưng liệu đó có phải là cuộc cạnh tranh giữa hai ý thức hệ
là chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội thực sự thể hiện bản chất và tinh thần
của chủ nghĩa Mác, hay không? Theo quan điểm của tác giả, những gì mà phương
Tây phải đối mặt trong Chiến tranh Lạnh chỉ là một mô hình thể chế được sinh ra
trong những điều kiện lịch sử cụ thể và được tiếp nối từ thời Lênin và Stalin,
nhưng đã bị biến dạng rất nhiều. Ít nhất thì nếu nhìn từ con mắt ngày nay, đặc
biệt là đối với mô hình Xô Viết sau những năm 1960, liệu đây có còn là mô hình
hệ thống xã hội mà người ta theo đuổi? Câu trả lời sẽ để lại rất nhiều nghi vấn.
Thứ
hai, liệu mô hình tư bản chủ nghĩa do Mỹ và châu Âu đại diện có phải là mục
tiêu tối thượng có thể được sao chép khắp nơi mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện
gì? Cũng không phải vậy. Do đó, sự đối đầu về ý thức hệ lúc đó là một mô hình
khái niệm vừa được phóng đại, lại vừa được đơn giản hóa, được sử dụng với mục
đích phân chia phe phái. Con người thời nay lại càng khó chấp nhận hơn đối với
việc tiếp tục sử dụng một hệ tư tưởng đơn giản như vậy để định hình một hiện thực
quốc tế đã có nhiều thay đổi lớn lao.
Các
tập đoàn quân sự và chính trị phân cực đã cấu thành các liên minh và hoạch định
các ranh giới, đây là một đặc điểm khác của Chiến tranh Lạnh, ví dụ như Hiệp ước
Warsaw và NATO lúc đó. Không những chính trị, kinh tế, quân sự, tư tưởng phải
có tính nhất quán cao độ, mà còn “phi ngã tộc loại”[1] và “đảng
đồng phạt dị”.[2] Tuy
nhiên, cấu trúc của cộng đồng quốc tế ngày nay đã trải qua những thay đổi lớn
lao. Một số người cho rằng, cuộc đối đầu hiện nay giữa Trung Quốc và Mỹ, hai cường
quốc với mọi chỉ số sức mạnh vượt trội, đã khiến cộng đồng quốc tế rơi vào tình
trạng đối đầu lưỡng cực. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, thế giới hiện nay giống
như đang ở trong trạng thái đa cực-đa dạng-đa nguyên hơn. Cũng tức là, thế giới
có nhiều chứ không chỉ hai trung tâm quyền lực, có lối sống xã hội đa dạng và
có các quốc gia với nền chính trị được xây dựng trên bối cảnh các hình thái văn
minh đa dạng. Đây là bức tranh thế giới gần gũi hơn với hiện thực, chứ không hề
chỉ là “cuộc đối đầu lưỡng cực giữa Trung Quốc và Mỹ”.
Ví
dụ, sức mạnh quân sự của Nga, đặc biệt là số lượng và chất lượng của vũ khí chiến
lược, không chỉ vượt trội so với Trung Quốc, mà thậm chí còn thắng thế trước Mỹ
ở một vài phương diện. Một ví dụ khác, với tư cách là một cộng đồng chính trị
và kinh tế, Liên minh Châu Âu dù đang trải qua thách thức của “Brexit” thì vẫn
là một bên có sức ảnh hưởng toàn cầu về chính trị, kinh tế, văn hóa và đang
ngày càng trở nên độc lập hơn. Ở đây vẫn chưa đề cập đến những trung tâm quyền
lực giàu bản sắc và vượt trội hẳn lên như ASEAN, Ấn Độ và Nhật Bản. Ngay cả khi
NATO tồn tại, thì tổ chức này cũng đã không còn có được cơ cấu quyền lực và
tính chính danh như cách mà Mỹ đã hiệu triệu cả thế giới vào thời điểm đó. Mặc
dù cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ là một đặc điểm nổi bật của bối cảnh quốc
tế hiện nay, nhưng mâu thuẫn giữa hai quốc gia này không thể thay thế hay bao
trùm toàn bộ cấu trúc đa cực-đa dạng-đa nguyên của cộng đồng quốc tế.
Cuộc
đối đầu chiến lược toàn cầu được đặc trưng bởi thế cân bằng vũ khí hạt nhân là
đặc điểm thứ ba của mô hình Chiến tranh Lạnh. Tình hình lúc ấy khiến người ta
kinh hãi, mà cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba có thể là một ví dụ tiêu biểu. Cuối
tháng 10 năm 1962, Nhà Trắng nhận được tin báo từ CIA rằng Liên Xô đã bí mật
triển khai một loạt tên lửa ở Cuba trong vài tháng qua. Các thành phố lớn ở Mỹ
đã nằm trong tầm bắn của tên lửa và một cuộc chiến tranh tàn khốc sắp xảy đến.
Mặc dù cuộc khủng hoảng kéo dài 13 ngày này cuối cùng đã kết thúc với một thỏa
hiệp chung, nhưng vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vào năm 1986 đã khiến
thế giới được chứng kiến một vở kịch sống động mà trong đó, các mối đe dọa hạt
nhân có thể ập đến bất cứ lúc nào. Bài học mà thế giới lĩnh hội được từ cuộc khủng
hoảng tên lửa Cuba cho đến sự cố Chernobyl là, một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ
mang đến sự hủy diệt cho toàn nhân loại. Một điều khác trong Chiến tranh Lạnh
mà ta không nên lãng quên là, Trung Quốc và Liên Xô đã từng xây dựng một liên
minh chặt chẽ vào đầu những năm 1960 rồi sau đó nhanh chóng rơi vào cuộc chiến
đảo Trân Bảo (Damansky) năm 1969. Khi đó, ở biên giới Trung-Xô có đến hàng triệu
quân binh cùng sự hậu thuẫn của các vũ khí hạt nhân chiến lược. Nếu chiến tranh
nổ ra, kết quả sẽ bi thảm đến mức nào? Đó là còn chưa kể đến quá trình cải cách
mở cửa của Trung Quốc không biết sẽ bị trì hoãn thêm bao nhiêu năm nữa.
Trong
bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát vào năm 2020 và quan hệ Trung-Mỹ suy giảm
mạnh mẽ, lập trường vững vàng của Trung Quốc trong việc đáp trả những hành động
khiêu khích của Mỹ cho thấy sự khác biệt quan trọng trong quan hệ giữa các nước
lớn ngày nay so với cuộc đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh. Chủ
tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh đặc điểm của thời đại ngày nay vẫn
là “hòa bình và phát triển”, phía Trung Quốc từng nhiều lần tuyên bố sẽ không
đi theo nhịp điệu của Mỹ, điều này thể hiện quyết tâm vững chắc của nước này
trong việc bảo vệ nền hòa bình thế giới, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích của
mình để phát triển hòa bình. Đồng thời, với tiền đề là thế giới vẫn đang trong
giai đoạn “đa cực” và Trung Quốc vẫn là nước đang phát triển, việc quay trở lại
cuộc đối đầu kiểu siêu cường giữa Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh lạnh sẽ đi
ngược lại với yêu cầu phát triển của thời đại và không phù hợp với những đặc
trưng cơ bản của cơ cấu quyền lực quốc tế. Điều đáng chú ý là, các tài liệu mới
nhất đến từ nhiều tổ chức nghiên cứu uy tín của Nga đã chỉ ra rằng: Chưa có đủ
bằng chứng cho quan điểm “sự phân lưỡng cực mới” đang phổ biến ngày nay; đồng
thời đưa “tránh để thế giới tái phân lưỡng cực” vào danh sách phương hướng mà tất
cả các bên nên nỗ lực.
Những
phân tích trên nhằm nhấn mạnh rằng, nguyên nhân khiến “Chiến tranh Lạnh mới”
không được ưa chuộng là bởi hàng loạt điều kiện chủ quan và khách quan đã nảy
sinh những thay đổi mang tính căn bản. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa mọi yếu
tố châm ngòi cho Chiến tranh Lạnh lúc đó đã hoàn toàn biến mất. Người ta không
thể nhắm mắt làm ngơ trước những xung đột quốc tế mang tính đối đầu có quy mô lớn.
Vào
hơn 100 năm trước khi Chiến tranh Lạnh nổ ra, năm 1835, nhà sử học người Pháp
Tocqueville đã đưa lời dự đoán: Khi các nước khác bị hạn chế hoặc không có hành
động gì, thì chỉ có hai nước Mỹ và Nga, một nước từ Đông sang Tây và nước kia từ
Tây sang Đông, sẽ nhanh chóng bành trướng. Hai cường quốc mở rộng lãnh thổ một
cách nhanh chóng và một ngày nào đó sẽ trở thành hai bá quyền mỗi bên chiếm giữ
một nửa thế giới. Từ đoạn văn có tầm nhìn xa trông rộng này của Tocqueville, có
thể nhận thấy rằng, có một vài điều kiện lịch sử đặc thù đã dẫn đến cuộc tranh
giành bá quyền của Mỹ và Liên Xô vào giữa thế kỷ 20.
Thứ
nhất, không chỉ cần có thực lực và hoài bão mà còn phải có cả không gian khả dĩ
và điều kiện thời đại để bành trướng. Vốn đã trải qua thử nghiệm trong Thế chiến
2, sức mạnh tổng thể và khả năng kiểm soát phe cánh một chín một mười của Mỹ và
Liên Xô là điều mà cơ cấu quyền lực đã bị phân tán rất nhiều trong điều kiện
toàn cầu hóa không thể so bì. Thứ hai, Mỹ – “thành phố trên đỉnh đồi” và Nga
(Liên Xô) – quốc gia tự xưng là “Roma đệ tam”, tuy có cách tiếp cận khác nhau
nhưng đều ôm ấp hoài bão cứu rỗi thế giới, sự hòa trộn giữa độc thần giáo và
truyền thống đế quốc đã cấu thành nên thế cục của các ý thức hệ mang tính đối
kháng sau này. Thứ ba, ngoài ý thức hệ, Mỹ đại diện cho địa chính trị mang tính
đại dương và Nga đại diện cho địa chính trị mang tính lục địa, sự cô lập về
không gian của Mỹ và sự liên tục về không gian của Nga đã tạo ra sự tương phản
rõ rệt, chính điều này đã trở thành động lực địa lý tự nhiên có tác động sâu sắc
đến cuộc tranh giành bá quyền giữa hai quốc gia này. Thứ tư, vào giữa thế kỷ
20, Mỹ và Liên Xô là những nước đầu tiên sở hữu kho vũ khí hạt nhân mà trên thế
giới không quốc gia nào có được vào thời điểm đó. Dù là răn đe hạt nhân hay cân
bằng hạt nhân thì yếu tố công nghệ và vũ khí độc đáo này cũng đã thúc đẩy mạnh
mẽ cuộc tranh giành bá quyền toàn cầu giữa hai nước.
Ngày
nay đã không còn giống như những gì Tocqueville đã nói. Không chỉ có Nga và Mỹ
muốn tranh giành bá quyền, cũng như không phải chỉ có các yếu tố ý thức hệ hay
địa chính trị mới thúc đẩy cuộc đối đầu giữa các nước lớn. Chiến tranh Lạnh là
một cục diện lịch sử phức tạp được hình thành bởi sự tổng hòa của các yếu tố
nêu trên trong một khoảng thời gian dài. Nó thực sự là một mô hình lịch sử chưa
từng xuất hiện trước đó và cũng khó có thể tái diễn trong tương lai. Vì vậy, lịch
sử khó có thể lặp lại một câu chuyện như vậy. Điều này không có nghĩa người ta
có thể vô lo vô nghĩ trước những cuộc khủng hoảng lớn được tạo ra bởi những
xung đột bất ngờ. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đột ngột nổ ra khi người ta
chẳng có chút phòng bị nào. Tuy nhiên suy cho cùng, hòa bình và phát triển vẫn
là những yêu cầu cơ bản của thời đại. Xu thế khách quan của cơ cấu quyền lực đa
cực, sự trỗi dậy của các quốc gia mới nổi cùng những thay đổi mang tính căn bản
về điều kiện quân sự và kỹ thuật dưới sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ
thông tin, trong đó gồm cả những thay đổi lớn lao về hình thái tư tưởng của con
người, khiến cho các xung đột quốc tế trong tương lai rất khó tái diễn tình trạng
của cuộc Chiến tranh Lạnh ở thế kỷ 20.
Vấn
đề thứ hai: Liệu “Tam giác Kissinger” có bị đảo ngược?
Quan
điểm tồn tại kể từ khi Trump ra tranh cử vào năm 2016 cho rằng “Tam giác
Kissinger” sẽ bị đảo ngược, tức chỉ việc Mỹ sẽ “liên minh với Nga để kiềm chế Trung
Quốc”, đã không trở thành hiện thực. Dưới đây là một vài lý do cho điều này.
Thứ
nhất, Putin không phải là một con cờ mà Trump có thể tùy ý thao túng. Những
thay đổi trong quan hệ Trung-Mỹ-Nga có liên quan chặt chẽ đến sự chuyển biến
trong việc đối nội và đối ngoại của Putin. Sự chuyển đổi sâu sắc diễn ra ở Nga
không cho phép lựa chọn nghiêng về phía Mỹ một lần nữa.
Putin
bước vào chính trường với tư cách là một người theo chủ nghĩa tự do. Từ những
năm 1980 đến những năm đầu thế kỷ 21, Trung Quốc và Nga đều nhấn mạnh việc học
hỏi phương Tây và hợp tác với phương Tây ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên,
quả thực rất hiếm có chính trị gia từ các nước lớn nào vừa đích thân trải qua
quá trình chuyển đổi khó khăn của Nga trong những năm 1990, lại vừa đích thân
tiến hành điều tra, so sánh sâu sát về mô hình phát triển của Trung Quốc và Nga
như Putin. Sau khi lên nắm quyền vào năm 2000, Putin đã “hướng về phương Đông”
trong khi vẫn không từ bỏ tiền đề là hợp tác với phương Tây. Đây là một quá
trình rất logic và hoàn toàn dễ hiểu.
Từ
năm 2001 đến 2002, sau khi lên nắm quyền, Putin từng nhiều lần thử xem liệu nước
Nga có thể gia nhập NATO có điều kiện hay không nhưng đều không có kết quả. Ngược
lại, kể từ đó NATO và EU đã liên tục mở rộng về phía Đông trên quy mô lớn.
Putin đã nhiều lần nói rằng, việc Mỹ đơn phương rút khỏi Hiệp ước Chống tên lửa
đạn đạo vào năm 2002 chính là khởi nguồn khiến quan hệ Mỹ-Nga xấu đi sau thế kỷ
21. Năm 2003, Putin bắt đầu tăng cường quyền lực của chính quyền trung ương
liên bang và bắt doanh nhân tư nhân lớn nhất nước Nga Khodorkovsky, người kiểm
soát huyết mạch năng lượng của đất nước và đang sẵn sàng phô diễn tài năng trên
chính trường. Điều này bị phương Tây coi là sự thụt lùi về tự do, dân chủ và thể
chế kinh tế thị trường. Kể từ đó, ngoài “Lý thuyết dân chủ có chủ quyền”
(Sovereign democracy) do quan chức cấp cao Surkov đề xuất, Putin không đưa ra
quá nhiều lời biện giải từ lập trường chủ quan. Trong quá trình này, hàng loạt
“cuộc cách mạng màu” đã xuất hiện ở các khu vực lân cận nước Nga từ năm 2003 đến
năm 2005.
Mùa
xuân năm 2008, Mỹ tìm cách lôi kéo Gruzia và Ukraine vào NATO, đây chính là
nguyên nhân sâu xa khiến cuộc chiến ở Gruzia bùng nổ. Từ khi cuộc khủng hoảng
Ukraine nổ ra vào cuối năm 2013 đến nay, yêu cầu gia nhập EU hay NATO của
Ukraine luôn là “Thanh gươm Damocles” treo lơ lửng trên đầu Nga. Trước đó, Mỹ
và châu Âu đã sử dụng phản ứng đối với Iran làm vỏ bọc cho việc triển khai hệ
thống chống tên lửa; gần đây, Mỹ đã đẩy mạnh việc triển khai hệ thống chống tên
lửa ở Ba Lan và Romania mà không hề che giấu. Cuối năm 2018, Trump công khai
bày tỏ nước này chuẩn bị rút khỏi Hiệp ước các Lực lượng hạt nhân tầm trung.
Khi đến thăm Nga, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ John Bolton nói rằng động thái này
không nhắm vào Nga mà nhắm vào Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều phân tích cho thấy,
Mỹ vẫn hy vọng nhiều hơn vào việc triển khai tên lửa tầm ngắn và tầm trung ở
xung quanh Nga để bảo vệ các nước “châu Âu mới”, nhằm đối phó với khả năng răn
đe mạnh mẽ của Nga. Sau hơn 10 năm kể từ khi Putin có bài phát biểu chỉ trích
phương Tây một cách công khai và gay gắt tại Hội nghị An ninh Munich 2007, các
chuyên gia Nga đã nói với tôi: “Xem ra lời cảnh báo của Putin đúng là có tầm
nhìn xa trông rộng.”
Tóm
lại, sau sự chuyển đổi ý thức hệ, nước Nga khó có thể tránh khỏi sự chèn ép đến
từ địa chính trị phương Tây. Chính vì vậy, trong bài phát biểu tại Diễn đàn
Valdai năm 2017, Putin đã bày tỏ một cách thẳng thắn rằng: “Sai lầm chính của
chúng tôi đối với phương Tây là chúng tôi đã quá tin tưởng nước Mỹ; còn sai lầm
của Mỹ là đã coi đây là điểm yếu và lạm dụng lòng tin.”
Thứ
hai, Putin đã hình thành hiểu biết sâu sắc và khó có thể lay chuyển về quan hệ
Trung-Nga dựa trên kinh nghiệm cá nhân.
Sự
phát triển của quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga kể từ cuối thế kỷ 20 không
phải là ngẫu nhiên, trong đó chứa đựng những quan sát và cân nhắc sâu sắc của
Putin đối với quan hệ Trung-Nga. Việc khôi phục quan hệ Trung-Xô vào năm 1989
xuất phát từ những suy xét tương đối sâu sắc của cả hai bên về lịch sử thù địch
trong Chiến tranh Lạnh. Mong muốn có được tình cảm láng giềng tốt đẹp, hợp tác
phát triển và đảm bảo an ninh đã thúc đẩy việc thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược Trung-Nga vào giữa những năm 1990. Khi đó, hai bên khẳng định sẽ không đối
đầu nhau và không xử lý quan hệ song phương dựa trên lập trường ý thức hệ. Điều
đặc biệt đáng nhắc tới là, trải qua 40 năm đàm phán, Trung Quốc và Nga đã giải
quyết triệt để vấn đề biên giới vào đầu thế kỷ 21, điều này cho phép hai nước tập
trung vào việc kiến thiết đất nước mình. Sự thành lập của Tổ chức Hợp tác Thượng
Hải vào năm 2001 đã tạo nền tảng vững chắc cho hợp tác Trung-Nga ở các khu vực
xung quanh. Vào thời điểm đó, tác giả đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế và các
chuyên gia phương Tây đều đưa ra những nhận xét tương đối tích cực về sự phát
triển ổn định của quan hệ Trung-Nga.
Điều
đáng nói là bản thân Putin đã đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
của quan hệ Trung-Nga. Tác giả từng nhiều lần may mắn có cơ hội tham gia Diễn
đàn Valdai do đích thân Tổng thống Putin tổ chức và được lắng nghe quan điểm của
riêng ông đối với sự phát triển của quan hệ Trung-Nga. Khi gặp Putin lần đầu tại
Diễn đàn Valdai năm 2006, tác giả đã hỏi quan điểm của ông về triển vọng của Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải. Putin đã cố ý hơi tách khỏi chủ đề này và bày tỏ quan
điểm của mình về sự phát triển của Trung Quốc. Ông nói: “Tôi muốn tiết lộ một
bí mật cho quý vị. Khi còn là Phó thị trưởng St. Petersburg vào những năm 1990,
tôi phụ trách mảng kinh tế thương mại đối ngoại. Khi ấy, tôi ghé thăm thành phố
kết nghĩa của chúng tôi là Thượng Hải, hai năm một lần. Cứ mỗi hai năm, khi chiếc
máy bay tôi ngồi hạ cánh xuống Thượng Hải, tôi luôn cảm thấy bất ngờ trước những
thay đổi đáng kinh ngạc mà thành phố này đã trải qua trong hai năm. Vào thời điểm
đó, không thành phố nào trên thế giới có thể có được sự phát triển nhanh chóng
đến vậy.” Đây có lẽ là lần đầu tiên Putin công khai bày tỏ ấn tượng cá nhân về
sự phát triển của Trung Quốc. Sau đó, Putin đề cập đến việc Trung Quốc và Nga
đã giải quyết triệt để các vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai bên. Ông nói:
“Ngay cả những vấn đề như vậy mà chúng ta cũng có thể giải quyết được, vậy thì
có vấn đề nào mà chúng ta không thể giải quyết và đối mặt chứ?”
Tại
Diễn đàn Valdai diễn ra vào năm sau, một chuyên gia người Nhật đã hỏi Putin về
quan điểm của ông đối với bước ngoặt hiện nay trong quan hệ Nga-Nhật. Putin trả
lời: “Chúng ta hãy nhớ lại tuyên bố nổi tiếng năm 1956. ‘Tuyên bố chung Xô-Nhật’
do Liên Xô ký kết, chứ không phải nước Nga chúng tôi. Vào thời điểm đó, một số
nguyên tắc đã được thống nhất và có thể ký kết hiệp ước hòa bình dựa trên cơ sở
những nguyên tắc này. Chúng tôi rất coi trọng điều này, nhưng như tôi đã nói
nhiều lần, chúng tôi muốn loại bỏ mọi trở ngại hơn. Đây không phải là vấn đề
đơn giản và chúng tôi không muốn tranh luận về nó vào lúc này. Hai bên luôn giữ
ý kiến của riêng mình, sẽ không bao giờ có kết quả.”
Theo
ghi chép của tác giả, ngay sau đoạn này, còn có một phát biểu khác của Putin
không được đưa vào văn bản chính thức của hội nghị. Ông nói: “Xin hãy nhìn cách
chúng tôi giải quyết vấn đề lãnh thổ với đối tác Trung Quốc. Chúng tôi đã bàn bạc
suốt 40 năm. Cuối cùng, chúng tôi đã giải quyết triệt để mọi vấn đề về biên giới
lãnh thổ. Tại sao chúng tôi lại không thể đạt được thỏa thuận như vậy với người
bạn Nhật Bản?” Putin đã nhiều lần nói rằng, chính bởi Trung Quốc và Nga đã giải
quyết xong vấn đề biên giới lãnh thổ nên mới có thể tập trung vào việc xây dựng
nền kinh tế trong nước. Dựa trên ấn tượng sâu sắc mà bản thân có được tại Diễn
đàn Valdai trong những năm qua, tác giả cho rằng, Putin rất coi trọng việc giải
quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ song phương. Tiền đề này có ý nghĩa rất lớn
đối với sự phát triển sau này của toàn bộ quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga.
Nói
cách khác, hiểu biết của Putin về quan hệ Trung-Nga xuất phát từ triển vọng rộng
lớn của mối quan hệ song phương được cung cấp bởi các giải pháp đúng đắn cho hết
vấn đề lớn này đến vấn đề lớn khác mà cá nhân ông đã đích thân trải qua. Một nhận
thức và niềm tin như vậy không thể dễ dàng bị lung lay bởi bất kỳ nỗ lực gieo rắc
bất hòa nào.
Thứ
ba, mô hình quan hệ Trung-Mỹ-Nga đã được định hình một cách khách quan bởi các
tiến trình quốc tế kể từ đầu thế kỷ này và khó có thể bị đảo ngược một cách dễ
dàng. Nếu nhìn lại sự hình thành và phát triển của cấu trúc ba bên Trung-Mỹ-Nga
kể từ đầu thế kỷ này, chúng ta có thể thấy rằng, chính việc cùng nhau trải qua
những cuộc khủng hoảng hết lần này đến lần khác đã hình thành nên những phẩm chất
tự thân cho mối quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga; cũng chính các hành động
chống bá quyền chung hết lần này đến lần khác đã hình thành nên nhận thức và lập
trường chung của Trung Quốc và Nga đối với Mỹ.
Đối
với Nga, cuộc khủng hoảng Kosovo diễn ra vào năm 1999 là bước ngoặt lớn đầu
tiên trong sự đi xuống của quan hệ Mỹ-Nga sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và
hòa giải. Trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc đã có trải
nghiệm đầy đau đớn về việc Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị tên lửa Mỹ ném
bom. Việc phải chịu những áp lực tương đồng trong cùng một khoảng thời gian đã
đưa Trung Quốc và Nga xích lại gần nhau hơn. Trong Chiến tranh Iraq năm 2003,
Trung Quốc và Nga đã hợp lực để phản đối việc Mỹ đã phát động Chiến tranh Iraq
theo chủ nghĩa đơn phương mà không thông qua sự cho phép của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc. Cùng năm đó, học giả người Mỹ Francis Fukuyama, người từng coi sự
kết thúc của Chiến tranh Lạnh là “sự cáo chung của lịch sử”, cũng nhận thức được
những khó khăn trong quá trình chuyển đổi của các nước xã hội chủ nghĩa trước
những năm 1990. Năm 2003, ông đưa ra quan điểm quan trọng rằng, tăng cường kiến
thiết đất nước là chìa khóa để đảm bảo chuyển đổi thành công. Trên thực tế,
quan điểm của Fukuyama chỉ là sự chứng thực đối với thực tiễn là Trung Quốc và
Nga đang đồng thời tiến hành việc tăng cường kiến thiết đất nước vào thời điểm
đó mà thôi.
Tối
ngày 8/8/2008, buổi lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh đã gây chấn động dư luận thế
giới. Ngay trong đêm đó, Tổng thống Gruzia Saakashvili đã từ chối nghe theo lời
khuyên can của Đại sứ Mỹ và tiến hành cuộc tấn công vào các căn cứ quân sự của
Nga trên lãnh thổ, dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng Gruzia. Dù hai vụ việc
này vốn không liên quan đến nhau nhưng học giả tân bảo thủ người Mỹ Robert
Kagan đã ngay lập tức công bố một bài bình luận cho rằng, việc hai sự việc này
xảy ra đồng thời cho thấy “trục chuyên chế Trung-Nga đã được hình thành”. Cáo
buộc mà Trung Quốc và Nga cùng phải nhận chỉ là một cột mốc mang tính giai đoạn
của những nỗ lực điên rồ hơn sau đó nhằm bôi nhọ hai nước này. Sau năm 2014,
hai sự kiện vốn không chút liên quan là sự việc ở Ukraine và xung đột ở Biển
Đông đã được giới chức cấp cao Mỹ mô tả là “hành động bắt tay” giữa Trung Quốc
và Nga. Cho đến cuối năm 2017, Báo cáo An ninh Quốc gia Mỹ đã coi cả Trung Quốc
và Nga là “đối thủ” của Mỹ. Ở một mức độ đáng kể, chính sự đàn áp liên tục của
Mỹ, cũng như việc Mỹ đồng thời coi cả Trung Quốc và Nga là “đối thủ” đã thúc đẩy
quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga từng bước phát triển và hình thành một
cách tự nhiên.
Tóm
lại, kể từ đầu thế kỷ đến nay, thế cục hiện tại của quan hệ ba bên giữa Trung
Quốc, Mỹ và Nga không chỉ xuất phát từ sự tích lũy tự nhiên của các sự kiện
quan trọng trong thực tiễn quốc tế, mà còn đến từ sự quan sát và cân nhắc sâu sắc
của các chính trị gia như Putin, ngoài ra cũng đến từ lời cảnh báo của các chiến
lược gia thế hệ cũ như Kissinger hay Brzezinski về việc tránh xung đột và tăng
cường hợp tác. Vì vậy, tại Diễn đàn Valdai năm 2016, khi được tác giả hỏi về việc
bản thân có kỳ vọng như thế nào đối với quan hệ ba bên Trung-Mỹ-Nga, Putin đã
trả lời: “Mối quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga nên là một mối quan hệ
cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.” Câu nói này của Putin có lẽ là một câu
trả lời hợp lý cho thực tế rằng “Tam giác Kissinger” khó có thể bị đảo ngược.
Vấn
đề thứ ba: Xu hướng tương lai của quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga
Trung
Quốc, Mỹ và Nga là ba cường quốc có sức mạnh tổng thể mạnh nhất thời hiện đại,
đồng thời cũng là ba cường quốc có thể quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại
một cách độc lập. Chính vì vậy, sự gần gũi hay xa cách, thăng hay trầm trong
quan hệ giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga là kim chỉ nam của nền chính trị quốc tế
đương đại, đồng thời cũng phản ánh sâu sắc những thay đổi trong cán cân sức mạnh
quốc tế và xu hướng phát triển cơ bản của thế giới trong tương lai. Thực tế đã
chứng minh rằng, thông qua kết nối và đàm phán kịp thời, Trung Quốc, Mỹ và Nga
có thể đạt được sự tôn trọng lẫn nhau và cải thiện mối quan hệ ở một mức độ nhất
định. Tuy nhiên, những khác biệt và mâu thuẫn về lợi ích chiến lược cơ bản đã
quyết định rằng, sự điều tiết và cùng tồn tại giữa ba bên là một quá trình lâu
dài và gian khổ.
Trước
hết, quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga trong tương lai sẽ có những đặc
điểm và bối cảnh sau đây.
Thứ
nhất, không giống với mọi thay đổi quốc tế trước đó, Chiến tranh Lạnh kết thúc
không phải bằng chiến tranh mà bằng hòa bình. Điều này đã mang lại tác động đặc
thù đến quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga. Điều này có ưu điểm là không
gây ra chiến tranh, nhưng cũng để lại tình trạng quyền lực không được phân chia
rõ ràng giữa các cường quốc. Nó đã để lại khoảng không gian cực kỳ lớn cho một
tương lai bất định, khi mà mối quan hệ giữa các nước lớn vừa là cuộc đối đầu, vừa
là sự hợp tác. Cuộc đối đầu và sự hợp tác này không chỉ diễn ra ở Âu Á, châu
Âu, châu Á-Thái Bình Dương, bao gồm Trung Đông, châu Mỹ Latinh, châu Phi, Bắc Cực
và các khu vực khác, mà còn diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị,
kinh tế, chiến lược và văn hóa.
Thứ
hai, một sự thay đổi đáng kể cùng với đó là việc Trung Quốc, Mỹ và Nga đều đã
duy trì hoặc tiến hành triển khai tầm ảnh hưởng trên quy mô toàn cầu. Chắc chắn
rằng, mặc dù phải đối mặt với những thách thức suy giảm, Mỹ vẫn duy trì được sức
ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trên toàn cầu. Trong khi đó, kẻ đến sau là Trung Quốc đã
thích nghi với các cơ hội của toàn cầu hóa và tập trung vào việc xây dựng mạng
lưới hợp tác kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Chiến lược “Một
vành đai, Một con đường” là biểu hiện mới nhất của kế hoạch triển khai toàn cầu
này. Còn với Nga, sau khi thoát khỏi cơn ác mộng “Hội chứng Liên Xô tan rã” và
đang tìm kiếm sự ổn định và phục hồi sức mạnh, nước này đã tái khởi động việc
triển khai chiến lược ngoại giao trên quy mô toàn cầu: tái thiết mạng lưới toàn
cầu với mục tiêu hạn chế, đầu tư hạn chế, hợp tác và can thiệp có kiểm soát, nhằm
phát huy sức ảnh hưởng truyền thống. Có thể nhìn thấy sự hiện diện của Trung Quốc,
Mỹ và Nga ở hầu hết mọi nơi, dù là trong kinh tế chính trị, chiến lược quân sự,
văn hóa thông tin hay bất cứ lĩnh vực nào khác. Việc triển khai ở phạm vi toàn
cầu của Trung Quốc, Mỹ và Nga rõ ràng tồn tại sự khác biệt lớn về cả nội dung,
mục tiêu, năng lực và mức độ. Tuy nhiên, khách quan mà nói, sự mở rộng quyền lực
của ba nước này cho thấy, phải nhìn vào khía cạnh toàn cầu thì mới có thể thực
sự hiểu được bề rộng của mối quan hệ tương hỗ giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga – dù
cho đó là cạnh tranh hay hợp tác.
Thứ
ba, giữa ba cường quốc Trung Quốc, Mỹ và Nga, thế cục bất cân xứng về sức mạnh
nhưng không loại trừ những quan niệm và cách xây dựng khác nhau sẽ tồn tại lâu
dài và tác động tới quan hệ ba bên. Có những khác biệt và khoảng cách khó có thể
xóa nhòa về nhiều mặt giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga, cho dù đó là về sức mạnh, vị
thế hay ảnh hưởng tiềm tàng. Tuy nhiên, giữa ba bên cũng tồn tại sự bổ sung sâu
rộng. Trong trạng thái lý tưởng, các lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế Trung Quốc,
Hoa Kỳ và Nga có tiềm năng hợp tác rất lớn. Tuy những khác biệt trong quan niệm
và tiêu chuẩn giá trị đã dẫn đến cấu trúc chính trị xã hội khác nhau giữa ba
bên, nhưng luôn có lý do để cùng tồn tại hòa bình, đồng thời mỗi bên cũng có thể
thể hiện giá trị của mình thông qua cạnh tranh.
Đáng
tiếc là kể từ thế kỷ 21, chỉ có một khoảng thời gian tương đối ngắn cho hợp tác
chống khủng bố sau sự kiện “11/9”. Trong một khoảng thời gian khá dài, nền tảng
của quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga là: thứ nhất là sự gần gũi của
Trung Quốc và Nga, song song với việc xây dựng hợp tác song phương, hai bên đã
kề vai sát cánh để đối phó với áp lực từ phương Tây; thứ hai, quan hệ Mỹ-Nga đã
có những lần “tái khởi động” không liên tục, nhưng mỗi lần đều bị đình chỉ do
những tác động từ cả bên trong và bên ngoài, thậm chí còn nảy sinh sự đảo chiều
lớn; thứ ba, sau khi duy trì được một khoảng thời gian dài bất chấp những thách
thức khó khăn, quan hệ Trung-Mỹ cuối cùng lại suy giảm mạnh mẽ khi đại dịch
COVID-19 bùng phát. Một số học giả cho rằng, ba bên đều lo sẽ bị kiềm chế bởi sự
hợp tác giữa hai bên còn lại; nhưng một hiện tượng phổ biến hơn là, ba cường quốc
này cũng bị xáo trộn và kiềm chế bởi nhiều trung tâm quyền lực khác, cũng như bị
trục lợi và cản trở bởi nhiều thế lực lớn nhỏ khác nhau. Ngược lại, điều này
cũng cảnh báo mọi người rằng: Trước tiên nhất định phải chú ý đến sự ổn định của
mối quan hệ tương hỗ giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga.
Thứ
tư, một thực tế quan trọng khác: quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga thường
được hiểu như một mô hình địa chính trị, điều này không phải là vô cớ. Địa
chính trị luôn là phạm trù được nhắc đến và vận dụng nhiều nhất trong nghiên cứu
quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, do nhiều lý do lịch sử, phạm trù này cũng dễ bị lý
giải một cách phiến diện nhất. Trên thực tế, từ tiếng Trung của phạm trù học
thuật có nguồn gốc từ phương Tây này đã khéo léo thể hiện ý nghĩa đích thực của
chủ đề địa chính trị: những thay đổi chính trị có nguyên do là các điều kiện địa
lý.[3] Địa chính
trị là lĩnh vực tập trung mô tả tác động to lớn của điều kiện địa lý đến quan hệ
quốc tế. Tuy nhiên, nó không tuyệt đối hóa tác động của điều kiện địa lý, mà
quan sát những thay đổi phức tạp trong quan hệ quốc tế thông qua sự tương tác
giữa các điều kiện địa lý với các yếu tố khác nhau như chính trị, kinh tế và
văn hóa.
Trong
lịch sử chính trị quốc tế, địa chính trị quan trọng nhất đề cập đến địa chính
trị lục địa và đại dương. Địa chính trị lục địa tập trung vào sự hợp tác và ổn
định giữa tất cả các bên trên đất liền, trong khi đó, do tính chất gián đoạn của
không gian địa lý, địa chính trị đại dương tập trung nhiều hơn vào việc giành lợi
thế bằng cách cân bằng đối thủ và tạo ra sự chia rẽ. Những quy luật địa chính
trị này rõ ràng đã để lại dấu ấn sâu sắc cho sự tương tác ba bên giữa Trung Quốc,
Mỹ và Nga. Sau nhiều lần trải qua nỗi đau “tái khởi động-thụt lùi”, Putin đã nhận
ra rằng, dù có từ bỏ ý thức hệ vốn có thì sự chèn ép của phương Tây cũng sẽ
không dừng lại. Putin từng nhiều lần bày tỏ: “Trò chơi địa chính trị sâu sắc
hơn nhiều so với cuộc cạnh tranh ý thức hệ.”
Trong
bối cảnh trên, sự tương tác ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga trong tương lai sẽ
có những xu hướng sau.
Đầu
tiên, sự tương tác giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga là một quá trình học hỏi lâu dài.
Dù là đối với một nền văn minh cổ xưa có bề dày lịch sử hay với một quốc gia
đang lên với lịch sử tương đối non trẻ, dù là đối với một chính trị gia kỳ cựu
hay với một người chỉ vừa mới bước chân vào vũ đài chính trị, thì trong điều kiện
lịch sử mới của thời đại, quan hệ giữa ba cường quốc Trung Quốc, Mỹ và Nga cũng
đều không phải là một quá trình có thể nắm bắt một cách dễ dàng.
Ví
dụ, dựa trên các tài liệu lịch sử và tác phẩm học thuật chuyên nghiệp có liên
quan mới được tiết lộ, trước khi quyết tâm phá băng trong quan hệ Trung-Mỹ,
Kissinger trước hết đã tiếp cận các nhà lãnh đạo Liên Xô để hỏi xem liệu Mỹ và
Liên Xô có thể hợp lực cùng chống lại Trung Quốc, kẻ mà họ coi là “dị đoan”,
hay không. Lúc đó, do các nhà lãnh đạo Liên Xô phản ứng quá chậm chạm,
Kissinger đã buộc phải từ bỏ lựa chọn Mỹ và Liên Xô hợp lực trước, mà thay vào
đó đã “chìa cành ô-liu” về phía các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Có thể thấy, ngay
cả Kissinger, một người vốn được khen ngợi là tinh thông lịch sử chính trị quốc
tế, cũng phải trải qua “thử nghiệm” thì mới có thể tìm ra con đường đúng đắn và
tìm thấy giải pháp thực sự cho những vấn đề ngoại giao trọng đại.
Lúc
đó thì là vậy, nhưng ngày nay khi mà tình thế còn phức tạp hơn nhiều so với hồi
đó, việc quản lý đúng đắn quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga đâu dễ dàng
như vậy. Mục đích của việc sử dụng cụm từ “quá trình học hỏi” để mô tả triển vọng
tương lai của mối quan hệ ba bên này là nhằm nhấn mạnh rằng: không nên có những
phản ứng không phù hợp hay thái quá trước những hành động vội vàng mà bất cứ
bên nào đưa ra do thiếu cân nhắc cẩn thận hoặc bị đặt trong những tình huống phức
tạp; càng không nên cứ mãi vận dụng cách làm vốn thường gặp trong lịch sử quốc
tế là “hai bên bắt tay” để tấn công “bên thứ ba” nhằm tìm kiếm vị thế có lợi
trong quan hệ ba bên. Trong lịch sử quan hệ quốc tế, có rất tiền lệ mà một bên
luôn được lợi và một bên luôn mất mát.
Thứ
hai, mặc dù giữa ba nước Trung-Mỹ-Nga tồn tại nhiều bất đồng, nhưng ba quốc gia
này buộc phải tham gia xử lý đủ mọi vấn đề lớn lao trong khu vực và toàn cầu.
Do vậy, tìm kiếm khả năng hợp tác và tương tác giữa ba nước, đồng thời cùng mở
đường cho việc xây dựng các hệ thống và trật tự quốc tế trong tương lai phải
luôn là mục tiêu để đạt được tiến bộ trong quan hệ ba bên.
Ở
đây, có ít nhất ba khả năng có thể xảy ra. Thứ nhất, lợi ích của ba bên hoàn
toàn mâu thuẫn và không thể hợp tác. Thứ hai, hai bên hợp lực để làm suy yếu
bên thứ ba. Ví dụ, Trung Quốc đã kiên quyết từ chối tham gia đàm phán Hiệp ước
các Lực lượng hạt nhân tầm trung để tránh những hậu quả bất lợi có thể xảy đến
với mình. Quan điểm của Trung Quốc được phía Nga ủng hộ. Nhưng nhìn về lâu dài,
khi số lượng và chất lượng vũ khí chiến lược của Trung Quốc tăng lên, Mỹ và Nga
sẽ ngày càng lo lắng việc vũ khí chiến lược của bên thứ ba không bị hạn chế và
sẽ gia tăng áp lực để buộc Trung Quốc phải tham gia thỏa thuận. Mới đây,
Arbatov Jr., một chuyên gia người Nga có uy tín trong vấn đề kiểm soát vũ khí,
đã chỉ ra rằng, Nga hiện ủng hộ quan điểm của Trung Quốc vô điều kiện và đồng ý
tổ chức các cuộc đàm phán song phương giữa Mỹ và Nga trước; nhưng về lâu dài
sau khi tình hình thay đổi, cần tạo điều kiện để thu hút Trung Quốc tham gia
đàm phán Hiệp ước các Lực lượng hạt nhân tầm trung. Ông tin rằng, đây là sự sắp
xếp có lợi cho mọi bên. Những diễn biến trong tương lai của lĩnh vực này rất
đáng để theo dõi, đặc biệt là những vướng mắc của Mỹ. Thứ ba, chủ động can thiệp
để giải quyết những vấn đề cấp bách khi điều kiện trong tương lai cho phép. Ví
dụ, việc thúc đẩy vấn đề bán đảo Triều Tiên đang gặp rất nhiều khó khăn. Tuy
nhiên, một khi xuất hiện cơ hội thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện tại và hình
thành cơ chế đàm phán, thì với tư cách là ba cường quốc hạt nhân, Trung-Mỹ-Nga
về mặt logic có khả năng và cũng buộc phải cùng nhau cung cấp một vài sự đảm bảo
riêng cho an ninh của toàn bộ bán đảo. Nhìn từ một gian đoạn tương đối dài, các
“khu vực trung lập” (như Áo và Phần Lan) từng thực sự tồn tại giữa phía Đông và
phía Tây châu Âu trong Chiến tranh Lạnh đã cung cấp rào chắn cho sự hòa giải giữa
các cường quốc, liệu tiền lệ này có thể mang lại bài học kinh nghiệm giúp giải
quyết các vấn đề trên bán đảo không? Đó cũng là một trong những triển vọng có
thể bàn luận.
Gần
đây, đã có những đề xuất kêu gọi các cuộc đối thoại trong các lĩnh vực mà ba
bên có thế mạnh và ý chí tương đồng. Ví dụ, liệu sự hợp tác giữa Trung Quốc, Mỹ
và Nga trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh thời Chiến tranh Lạnh có thể lặp lại
không? Mới đây, Cựu Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Frank Rose đã đề xuất rằng, sức mạnh
hạt nhân của ba nước Trung-Mỹ-Nga có khoảng cách quá lớn nên không thể đàm
phán, nhưng có thể tìm kiếm cơ hội đối thoại và hợp tác trong lĩnh vực vũ trụ.
Các chuyên gia của Tập đoàn RAND cũng cho rằng, trong vòng 10 năm tới trước khi
vũ khí siêu thanh có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho nhân loại, ba quốc gia
duy nhất có đủ trình độ là Trung Quốc, Mỹ và Nga phải tăng cường hợp tác để
ngăn chặn sự lây lan này. Cũng có học giả chỉ ra rằng, ngay cả khi chúng ta
không theo đuổi lợi ích của việc “đảo ngược Tam giác Kissinger”, thì nhìn từ
góc độ của nước láng giềng, việc cải thiện quan hệ Mỹ-Nga là một điều tất yếu.
Ít nhất thì từ triển vọng này, Trung
Quốc có thể coi việc tìm kiếm con đường đối thoại và hợp tác ba bên giữa
Trung-Mỹ-Nga là lĩnh vực nghiên cứu “phòng ngừa”. Nhìn về dài hạn, Trung Quốc
có năng lực cũng như trách nhiệm hợp tác với cộng đồng quốc tế để tìm kiếm khả
năng giải quyết những vấn đề cấp bách và phức tạp này, qua đó dần cung cấp thêm
hàng hóa công cho an ninh khu vực, đồng thời đóng góp cho sự tái thiết mối quan
hệ Trung Quốc, Mỹ và Nga.
Thứ
ba, phản ứng của chính bản thân Putin, giới tinh hoa chính trị và công chúng
cho thấy, nước Nga nhìn chung có thái độ cẩn trọng trước cái gọi là chiến lược
“liên minh với Nga để kiềm chế Trung Quốc” và lập trường thân Nga của Trump. Điều
này cho thấy quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga không phải không có khả
năng phát triển bền vững trong tình hình quốc tế đầy biến động. Ngoài việc nhấn
mạnh rằng “Mối quan hệ ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga nên là một mối quan hệ
cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi”, Putin cũng nói rõ: “Trong điều kiện hiện
nay, chúng ta nên hết sức trân trọng mối quan hệ Trung-Nga.” Phát biểu công
khai này của Putin rất ngắn gọn, rõ ràng cũng như rất có tính mục tiêu và định
hướng.
Tác
giả cho rằng đây là sự tiếp nối lập trường nhất quán trong suốt 10 năm qua của
Putin. Ngay cả trong cục diện lạc quan khi quan hệ Nga-Mỹ từng có khả năng được
cải thiện, bản thân Putin và các chính trị gia Nga nhìn chung vẫn quyết tâm duy
trì và thúc đẩy sự phát triển của quan hệ Trung-Nga. Hiện tượng này cho thấy: Mỗi
bên đều cần điều chỉnh quan niệm của mình và coi việc theo đuổi sự tương tác
hài hòa giữa ba bên là tôn chỉ. Nhìn về dài hạn, sự điều tiết của quan hệ Mỹ-Nga
không mâu thuẫn với sự ổn định chung của tình hình quốc tế. Ngay cả khi nhìn từ
góc độ quan hệ Mỹ-Nga, việc tìm kiếm cơ hội hợp tác phát triển cũng là một điều
tất yếu.
Thứ
tư, bốn đặc trưng chính của sự tương tác giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga: Ảnh hưởng
lâu dài và những hạn chế đối với các vấn đề đối nội, đối ngoại của mỗi nước.
Đặc
trưng tổng thể của sự tương tác giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga là gì? Tác giả tin rằng
các đặc trưng mang tính cấu trúc “bất cân xứng về năng lực, dễ nảy sinh xung đột,
cần cân bằng quyền lực và có khả năng hợp tác” có thể sẽ ảnh hưởng và hạn chế
các chiến lược đối ngoại cũng như xu thế phát triển bên trong của mỗi nước
trong một thời gian dài.
“Bất
cân xứng về năng lực” bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết, sự bất cân
xứng về mức năng lượng kinh tế có nghĩa, Mỹ có sức mạnh tổng thể về kinh tế và
công nghệ vượt trội so với Trung Quốc và Nga, đặc biệt là ở các phương diện
công nghệ cao, nghiên cứu cơ bản hay năng lực chuyển hóa giữa doanh nghiệp-đại
học-nghiên cứu. Từ góc độ của từng nhóm quan hệ song phương, quan hệ Trung-Mỹ
và Trung-Nga khá tương đồng và bổ sung cho nhau, trong khi quan hệ kinh tế Mỹ-Nga
lại khá yếu ớt, giữa hai bên tồn tại một khoảng cách lớn với kim ngạch thương mại
chỉ khoảng 1%. Thương mại song phương giữa Trung Quốc và Nga đã vượt 100 tỷ USD
vào năm 2018, một phần là do được hưởng lợi từ việc giá năng lượng tăng. Ngoài
ra, quan hệ kinh tế và thương mại giữa Trung Quốc và Nga vẫn chưa thoát khỏi sức
ì mang tính cơ cấu là phụ thuộc nhiều vào nguồn năng lượng.
Tình
trạng bất bình đẳng về chính trị không có ý nói sự khác biệt về hệ thống xã hội
và ý thức hệ đã khiến Trung-Mỹ-Nga ở vào thế chân vạc, mà chủ yếu đề cập đến
hai khía cạnh. Thứ nhất, trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc và Nga đã không ngừng
cải cách thể chế truyền thống, cũng như tìm kiếm con đường phát triển và mô
hình thể chế phù hợp với đất nước mình. Trong khi đó, Mỹ vẫn bảo thủ và bám chặt
vào đường lối cũ, đồng thời cũng chưa từ bỏ định kiến chính
trị đối với Trung Quốc và Nga. Thứ hai, Trung Quốc và Nga chủ trương rằng ý thức
hệ không cản trở quan hệ song phương, nhưng Mỹ lại có quan điểm chủ đạo là tăng
cường ý thức hệ và các mối quan hệ đồng minh vốn có để đối kháng với Trung Quốc
và Nga
Trong
lĩnh vực an ninh, Trung Quốc và Nga giữ vững tình cảm láng giềng tốt đẹp và mối
quan hệ đối tác chiến lược “lưng tựa lưng”, đồng thời tương đối gần gũi về mặt
địa chính trị. Mặt khác, giữa địa chính trị đại dương và địa chính trị lục địa
mà Mỹ và Nga là đại diện tồn tại những khác biệt sâu sắc. Từ “cách mạng màu”,
chiến tranh Gruzia cho đến cuộc khủng hoảng Ukraine, với tư cách là một quốc
gia sống trong môi trường “hòn đảo an toàn”, Mỹ nhìn chung đã phủ định “phạm vi
ảnh hưởng” của Nga ở các khu vực xung quanh và đã thúc đẩy một “chương trình
nghị sự tự do” mang tính ý thức hệ cao độ. Trong khi đó, là quốc gia có tình
hình địa chính trị xung quanh phức tạp hơn nhiều so với Mỹ, Nga kiên định trong
việc duy trì sức ảnh hưởng truyền thống ở các nước thuộc Liên Xô cũ một cách có
chọn lọc. Sự tương phản về địa chính trị đã thúc đẩy sự thù địch cao độ giữa Mỹ
và Nga. Đặt trong sự so sánh với Mỹ và Nga, liệu đặc điểm nửa hướng biển, nửa
hướng đất liền và mang đặc trưng của cả địa chính trị đại dương lẫn địa chính
trị lục địa có phải là sự báo hiệu rằng, Trung Quốc có thể đi theo con đường đối
nội và đối ngoại khác hẳn so với các quốc gia thuần đại dương và các quốc gia
thuần lục địa, cũng như phát huy được vai trò điều tiết nào đó trong cuộc đối đầu
không cân bằng giữa địa chính trị đại dương và lục địa?
Không
khó để lý giải ý nghĩa của “bất cân xứng về năng lực, dễ nảy sinh xung đột”. Dưới
tiền đề của “bất cân xứng về năng lực”, mặc dù Mỹ vẫn sẽ duy trì vị thế siêu cường
trong thời gian dài nhưng sự phát triển của bản thân nước này cũng tồn tại tính
không chắc chắn. Đặc biệt là trong bối cảnh Mỹ lạm dụng các biện pháp trừng phạt
và bắt nạt kẻ yếu, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu, Trung Quốc và Nga, hai
nước có sức mạnh quốc gia kém hơn Mỹ, xích lại gần nhau và sưởi ấm lẫn nhau. “Cần
cân bằng quyền lực và có khả năng hợp tác” có nghĩa là: Trong tình trạng bất ổn
được tạo ra bởi sự chuyển đổi toàn cầu phức tạp cùng sự khác biệt về lợi ích và
nhận thức, thì mâu thuẫn và va chạm, xung đột và đối đầu là điều khó có thể
tránh khỏi, và thậm chí sẽ đồng hành cùng sự chuyển đổi của toàn thể mô hình
toàn cầu. Trong giai đoạn này, một khoảng thời gian ngắn là không đủ để quan hệ
giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga đạt được bước đột phá lớn và trở nên ổn định.
Tuy
nhiên, những thay đổi quốc tế trong thế kỷ 21, đặc biệt là quá trình kể từ khi
đại dịch COVID-19 bùng phát cho thấy: Mọi việc đều phụ thuộc vào con người, mấu
chốt nằm ở việc liệu Trung Quốc, Mỹ và Nga có thể dàn xếp một cách lý tính và
thực tế đối với mọi nỗi bất an và lo ngại mà sự chuyển đổi toàn cầu mang lại, để
đạt tới sự cân bằng và kiểm soát về sức mạnh hay không. “Hòa bình và phát triển”
vẫn là chủ đề chính của thời đại ngày nay, cơ cấu quyền lực quốc tế vẫn đang
trong giai đoạn đa cực, đa dạng và đa nguyên. Dù đang phát triển nhanh chóng
nhưng Trung Quốc vẫn là một nước đang phát triển. Vì vậy, cho dù là giữa ba bên
Trung-Mỹ-Nga hay giữa từng mối quan hệ song phương với nhau thì cũng đều có hy
vọng lớn cho sự hợp tác. Chỉ cần Trung Quốc, Mỹ và Nga có thể dàn xếp mối quan
hệ giữa họ một cách hiệu quả, vậy thì vẫn có thể kỳ vọng quá trình chuyển đổi
toàn cầu sẽ diễn ra ổn định và bền vững bất chấp những mâu thuẫn.
Tóm
lại, sự tương tác hiện nay giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga đã thu hút sự quan tâm của
toàn thế giới. Một mặt, điều này xuất phát từ xu thế phát triển đa dạng hóa
mang tính dài hạn của thế giới. Sự tương tác ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga
là sự hiện diện mang tính cấu trúc quan trọng của nền chính trị quốc tế trong
tương lai. Mặt khác, quan hệ ba bên Trung-Mỹ-Nga thiếu các chuẩn mực và quy tắc
của một khuôn khổ chuyên biệt, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của trò chơi ý thức
hệ và địa chính trị. Quan hệ ba bên Trung-Mỹ-Nga có thể được điều chỉnh và cải
thiện ở một mức độ nhất định thông qua đàm phán kịp thời, tuy nhiên, những khác
biệt và bất đồng về lợi ích chiến lược giữa ba nước sẽ không thể được điều hòa
và cùng tồn tại nếu không trải qua những nỗ lực dài lâu.
Bởi
vậy, việc hoạch định chiến lược và ứng phó với những thay đổi của mối quan hệ rất
năng động giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga trong tương lai là một quá trình học hỏi
lâu dài. Sẽ luôn tồn tại sự bất cân xứng trường kỳ giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga,
dù là về sức mạnh hay tiềm lực. Cần tin tưởng chắc chắn vào sự cùng tồn tại và
tương thích giữa triển vọng phát triển đa dạng với sự công nhận các chuẩn mực
phổ quát đã được chứng minh trong thực tiễn, đồng thời tìm kiếm sự bổ sung và
cân bằng lẫn nhau giữa các lực lượng chính trị cả mới lẫn cũ ở mức độ lớn nhất.
Cuối cùng, thông qua việc giải quyết cuộc khủng hoảng trước mắt, Trung Quốc, Mỹ
và Nga có thể cùng nhau tìm kiếm cơ chế đảm bảo cho sự phối hợp hài hòa giữa
các tiến trình trong nước của mỗi bên với việc xây dựng thể chế khu vực và quốc
tế. Đây sẽ là trách nhiệm và quyền lợi không thể chối từ của ba cường quốc này.
Cuối
cùng, Trung Quốc, Mỹ và Nga có thể giải quyết cuộc khủng hoảng hiện tại và cùng
nhau tìm cách đảm bảo các tiến trình nội bộ tương ứng của họ.
Bài
viết này được trích từ Phùng Thiệu Lôi, Khủng hoảng và trật tự: Quan hệ đối ngoại
của Nga dưới sự chuyển đổi toàn cầu, Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, ấn bản
năm 2024.
—————–
[1] Ý chỉ “Phi ngã
tộc loại, kỳ tâm tất dị”: Nếu không cùng tộc loại với ta thì ắt sẽ có lòng dạ
khác.
[2] Ý chỉ việc bênh vực những người có cùng quan điểm với
mình và chống lại những người có quan điểm khác mình.
[3] Trong tiếng Trung, “geopolitics” được dịch là “địa
duyên chính trị” (地缘政治), trong đó “duyên”
có nghĩa là nguyên do, duyên cớ.
-----------------------------------------
Nguồn: Phùng Thiệu Lôi, “冯绍雷:当今中、美、俄三边关系的主要问题”, Aisixiang, 20/05/2024.
No comments:
Post a Comment