May 22, 2023 . 3:49 PM
https://www.luatkhoa.com/2023/05/ao-anh-trung-luu-o-viet-nam/?ref=luat-khoa-newsletter
Khi thượng lưu tự nhận là trung lưu.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1304/2023/05/Wire-2023-05-22-at-3-46-PM.png
Ảnh minh họa.
Đồ họa: Luật Khoa.
Chuyện các nhóm thượng lưu, thượng trung lưu
(upper class, upper middle class) nhận vơ về danh xưng “trung lưu” cho đến nay
đã trở thành một trào lưu quốc tế.
Và ngay cả ở Việt Nam cũng vậy.
Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về vấn đề này
thông qua những nghiên cứu gây được tiếng vang lớn như “Media Magic: Making
Class Invisible” (Truyền thông nhiệm màu: Biến giai cấp thành vô hình) của
Mantsios Gregory; hay nghiên cứu của Erika Paulson và Thomas O’Guinn với tựa đề
“Marketing Social Class and Ideology in Post-World-War-Two” (Tiếp thị
giai cấp và ý thức hệ hậu Đệ nhị thế chiến). [1] [2]
Chuyện dài nói ngắn, các nghiên cứu này cho thấy
một bộ phận người dân Mỹ đang lầm tưởng rằng mình thuộc giai cấp “trung lưu” bởi
vì truyền thông và các sản phẩm tiếp thị thường làm mờ đi ranh giới giữa tầng lớp
lao động sống tháng nào biết tháng nấy với giới thượng lưu, điều này góp phần tạo
ra một “giai tầng trung lưu phổ quát” (universal middle class).
Hiển nhiên, đời sống và khả năng chi trả của
hai nhóm này khác nhau như ngày và đêm, nhưng ảo ảnh của một giai tầng trung
lưu phổ quát biến những sản phẩm mắc mỏ, những phong cách sống cao cấp trở
thành “chuyện thường ở huyện”.
Đời sống quốc dân nhờ tự huyễn hoặc mà được
nâng cao, đa phần dựa trên hình ảnh của tầng lớp dư giả, giàu có.
Việt Nam có vẻ cũng đang trải qua một giai đoạn
tương tự.
Phổ quát hóa giai cấp trung lưu: Cách truyền thông
Việt Nam xóa nhòa lằn ranh giai cấp
So chiếu với các lý thuyết nghiên cứu xã hội
trên thế giới, người viết gọi thứ mà truyền thông Việt Nam lẫn các nhóm thống
trị không gian mạng xã hội Việt Nam đang làm là quá trình “phổ quát hóa giai cấp
trung lưu” (the universalisation of middle-class).
Giới chuyên gia không thống nhất với nhau về
cách xác định giai cấp trung lưu. Trong hàng loạt cách tiếp cận khác nhau, có lẽ
cách phổ biến nhất là xác định dựa trên mức thu nhập của hộ gia đình. Ngay cả
cách này cũng có đến vài phương pháp xác định khác nhau. [3]
Ở Việt Nam, chúng ta thiếu các thống kê thực địa
chính thức nên khó có một tiêu chuẩn và con số chính xác. Tuy nhiên, theo
nghiên cứu của Hakuhodo Institute of Life and Living ASEAN (HILL ASEAN) vào năm
2016, họ đánh giá rằng chuẩn trung lưu của Việt Nam sẽ bao gồm một phổ thu nhập
rất rộng từ 5.000 Mỹ kim (khoảng hơn 100 triệu đồng) đến hơn 35.000 Mỹ kim (khoảng
hơn 8 tỷ đồng) mỗi năm. [4] Thông tin của nghiên cứu chỉ ra có khoảng 50% dân số
Việt Nam đủ điều kiện để được xếp vào nhóm này.
Trong một thống kê và nghiên cứu khác của
Cimigo (2023), họ cho rằng có khoảng hơn 15 triệu hộ có thu nhập cao hơn 15 triệu
đồng một tháng (tức chỉ khoảng 644 Mỹ kim một tháng, tương ứng với 7.728 Mỹ kim
mỗi năm). Nhóm này, theo cấu trúc thu nhập của Việt Nam, cũng được Cimigo xem
là nhóm trung lưu. [5]
Nếu xét cả lạm phát và thu nhập tăng theo năm,
có thể thấy cả HILL ASEAN và Cimigo đều cho chúng ta một cái nhìn tương đối gần
nhau. Theo cấu trúc thu nhập của người Việt Nam, hộ gia đình có tổng thu nhập
trung vị ở mức 7.000 - 8.000 Mỹ kim một năm (tức khoảng 15 triệu đồng một
tháng) thì đã được xem là trung lưu.
Sự trung lưu này là tương đối eo hẹp, nếu xét
tổng thể đời sống kinh tế của cả một hộ gia đình dựa trên nguồn thu nhập này.
Đáng chú ý hơn, theo ghi nhận của Cimigo, hộ
gia đình có thu nhập từ 1.288 Mỹ kim trở lên mỗi tháng (tức khoảng 30 triệu đồng
mỗi gia đình), chỉ đại diện cho 6% các hộ gia đình tại Việt Nam.
Trong khi đó, thành phần cốt cán lãnh đạo của
những tòa báo, giới làm truyền thông, quảng cáo, dân vận - những người nắm đằng
chuôi của quá trình tái hiện hiện thực xã hội - thường là những nhóm thị dân,
giới con nhà khá giả “một căn ở, một căn cho thuê”, thậm chí có quyền thế tài
chính, có vị trí xã hội, có gốc gác chính trị. Họ thường thuộc nhóm chóp bu của
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam, tức nhóm 6% mà chúng ta vừa nhắc
đến ở trên.
Vấn đề ở chỗ, họ thường tự định vị rằng mình
chỉ thuộc nhóm “thị dân”, “trung lưu”, và “sống được”.
Từ đó, họ phản chiếu đời sống của mình vào
không gian chung của quốc dân, biến nó thành tiêu chuẩn “cơ bản”, “trung bình”,
“ai cũng có được”.
Nguy hiểm hơn, nhóm này không nhận ra những đặc
quyền, đặc lợi mà vị thế giai cấp của họ đang trao cho họ.
Khi người giàu bàn chính sách
Những suy nghĩ này dẫn người viết trở về một
tranh cãi trong lúc trà dư tửu hậu với một người anh là chuyên gia trong lĩnh vực
chính sách, pháp luật.
Bày tỏ quan điểm ủng hộ việc sử dụng xe bus,
anh cho rằng để thúc đẩy chính sách này thành công cần phải có sự răn đe, thúc
ép từ nhà nước, phải có động thái cấm xe máy. Anh cũng đưa ra nhận định người
Việt Nam lười, ham thuận tiện trước mắt nên không muốn dùng xe bus.
Anh cũng dẫn chứng thêm về sự “tiện lợi” mà xe
bus dành cho anh - một người làm công ăn lương hay thị dân trung lưu. Mỗi ngày,
anh chỉ cần đón xe bus từ lúc 7 giờ sáng là đã có thể đến nơi làm một cách an
toàn và nhẹ nhàng, rồi đón xe bus lúc 5 giờ rưỡi chiều để về nhà tận hưởng
không gian bên gia đình một cách thoải mái.
Thứ anh quên nhắc, là anh có một công việc ổn
định, lương tốt, danh tiếng lớn với giờ giấc bảo đảm từ 9 giờ sáng đến 5 giờ
chiều, một thứ đặc quyền trong nền kinh tế “xe máy” của nhiều người Việt Nam.
Thứ anh quên nhắc là gia đình anh có một căn hộ
hạng sang ở một khu vực đầy đủ tiện nghi, cách trạm xe bus vài trăm mét đi bộ.
Thứ anh quên nhắc là gia đình anh có người giữ
trẻ, có giúp việc săn sóc người lớn tuổi ở gia đình khi anh vắng nhà.
Thứ anh quên nhắc là anh chưa bao giờ phải
nghĩ đến việc kiếm thêm với công việc thứ hai, thứ ba, hay chạy đôn chạy đáo
nhiều nơi để có thêm tiền chi tiêu trong những trường hợp khẩn cấp của gia đình.
Thứ anh quên nhắc là đến cuối tuần hay những
ngày lễ, gia đình anh thường lên xe ô tô du lịch mà nắng không tới vai, mưa
không ướt đầu, v.v.
Cả đời anh không cần chiếc xe hai bánh rẻ tiền
thì nói thế là phải.
Nhưng anh cũng quên rằng, đối với các gia đình
nhập cư, sinh viên tỉnh lẻ, người có thu nhập thấp, người lao động - những người
chiếm đại đa số dân cư Việt Nam - thì họ không có bất kỳ đặc quyền nào kể trên
cả.
Xe bus và mạng lưới xe bus nghèo nàn, chất lượng
giờ giấc kém trở thành một con quái vật quan liêu với những trò bày vẽ “tiểu tư
sản” về môi trường, cảnh quan đô thị.
Họ không ghét xe bus vì ý thức hệ/ tư tưởng
chính trị, mà họ ghét nó vì kiểu tư duy áp đặt “cấm xe máy” và “xe bus phải là
tương lai” không hề tính đến hiện thực đời sống của họ, có nguy cơ khiến cho
chén cơm của họ vơi đi từng ngày.
Ấy thế mà, với tất cả những đặc quyền mình có,
anh vẫn tự nhận mình là trung lưu.
***
Với sự thống trị của các nhóm giàu có trên các
phương tiện truyền thông chính thống, mạng xã hội, các sản phẩm tiếp thị, cùng
với xu hướng biến mọi thứ trở thành “thứ thiết yếu”, “thứ trung lưu” của các
mô-tuýp quảng cáo, không có gì bất ngờ khi trong tương lai, đời sống thực tế của
người lao động lại càng trở nên vô danh, vô diện, như cách mà Mantsios mô tả
(“The poor are faceless”).
Người nghèo và số đông người lao động bình thường
cũng như hiện thực đời sống của họ trở thành “thiểu số”, trở thành ví dụ của sự
“không biết cố gắng”, và thậm chí không tồn tại.
Ảo ảnh về thịnh vượng tại Việt Nam có lẽ từ đó
mà ra.
****
Tính đa
chiều của “giấc mơ Mỹ”
Tiếp tục
thay đổi tích cực cuộc sống của hàng trăm ngàn người Việt mỗi năm.
Luật Khoa
tạp chí Nguyễn Quốc Tấn Trung
.
Tầng
lớp trung lưu lụy chính quyền của Trung Quốc
Giàu
sang, có địa vị và học thức không đồng nghĩa với việc sẽ ủng hộ dân chủ.
-----------
Chú thích
1. Mantsios Gregory (2007), “Media Magic:
Making Class Invisible” in Race, Class and Gender in the United States,
7th ed., Rothenberg Paula S., ed. New York, NY: Worth Publishers, 636–44.
2. Paulson, E. L., & O’Guinn, T. C.
(2018). Marketing Social Class and Ideology in Post-World-War-Two American
Print Advertising. Journal of Macromarketing, 38(1), 7–28. https://doi.org/10.1177/0276146717733788
3. Reeves, R. V., Guyot, K., & Krause, E.
(2018, May 7). Defining the middle class: Cash, credentials, or culture?
Brookings; Brookings. https://www.brookings.edu/research/defining-the-middle-class-cash-credentials-or-culture
4. Most Vietnamese think they belong to
‘middle class.’ (n.d.). VietNamNet News. https://vietnamnet.vn/en/most-vietnamese-think-they-belong-to-middle-class-E152887.html
5. Burrage, R. (2023, April 12). Vietnam
economic class and rising affluence. Market Research Vietnam Indonesia. https://www.cimigo.com/en/vietnam-economic-class/
No comments:
Post a Comment