TUYÊN
NGÔN CHO KHOA HỌC XÃ HỘI
Bernard Lahire[*]
15.1.22
http://www.phantichkinhte123.com/2022/01/tuyen-ngon-cho-khoa-hoc-xa-hoi.html#more
Ngày
nay, các khoa học xã hội là chủ đề của những tranh chấp vô bổ, nửa khoa học, nửa
chính trị. Để lánh xa điều này, các nhà nghiên cứu phải quay trở lại tham vọng
sáng lập mà họ đã có xu hướng bỏ qua: xác định các quy luật, các bất biến, các
nguyên tắc, các điều cơ bản... Chỉ có sự thiết lập một chương trình làm việc tập
thể và liên ngành mới cho phép tiến thêm một bước, một cách tập thể, hướng tới
một ngành khoa học xã hội xứng đáng với tên gọi, bằng cách thiết lập một khung
có tính tích hợp và hợp nhất, vượt lên trên các ngành, như các khoa học về sự sống
đã làm được.
“Thật
thú vị khi quan sát một sườn dốc chằng chịt, bị nhiều loài thực vật đủ loại phủ
kín, trong khi chim hót trong bụi rậm, nhiều loại côn trùng khác nhau bay tứ
tung, và những con sâu bò qua mặt đất ẩm ướt, và nghĩ rằng những hình dạng này
với sự thiết kế công phu, vốn rất khác nhau, và phụ thuộc vào nhau theo một
cách thật sự phức tạp, đều được được tạo ra bởi các quy luật vận hành xung
quanh chúng ta.” (Charles Darwin, Nguồn gốc
các loài, 1859)[1]
Sau
hơn một trăm năm mươi năm tồn tại, rõ ràng các khoa học được gọi là “nhân văn”
và “xã hội[2]”
gặp khó khăn để trở thành những khoa học giống như các khoa học khác, khiến cho
nhiệm vụ áp đặt sự hiển nhiên của các kết quả hay những thành tựu chính của
chúng trở nên khó khăn. Ta có thể quy một phần của trách nhiệm về tình trạng
này cho việc xử lý chính trị (xấu) các khoa học xã hội hay cho tính chất muộn
màng và rất hạn chế của việc giảng dạy chúng, và ta sẽ không sai. Nhưng vấn
đề trước hết nằm bên trong lĩnh vực kiến thức này.
Nếu
nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội tin chắc về sự cần thiết phải chặt chẽ
trong lập luận và trong cách xử lý bằng chứng và tạo ra những công trình vững mạnh
đáng được quan tâm, rất ít người tin rằng một ngày nào đó các khoa học xã hội
có thể trở thành các khoa học giống các khoa học khác (đặc biệt các khoa học về
vật chất và sự sống), có khả năng tạo ra sự tích lũy khoa học và xây dựng các
quy luật chung của sự vận hành của xã hội. Liệu tri thức không có đức tin (khoa
học) hay quy luật có thể thực sự mang tính khoa học không?
Cộng
thêm vào sự mong manh nội tại của các ngành khoa học này, còn có một số nhân tố
góp phần làm rối hơn nữa các thông điệp mà chúng có thể truyền đi. Các khoa học
xã hội đã để một sự phân công lao động được kiểm soát kém phát triển bên trong
chúng, tạo ra vô số các công trình phân tán theo ngành và phụ ngành mà những
đóng góp hầu như không có tính tích lũy hoặc kết nối[3].
Cảm giác về sự phân tán các công trình do quá trình chuyên môn hóa quá sâu cũng
đã được khuếch đại dưới tác động của sự đa nguyên lý thuyết thường ngăn cản, do
sự cạnh tranh giữa
các “trào lưu” hoặc “trường phái”, việc xem xét, cả ở đây nữa, cách thức để kết
nối các phương pháp tiếp cận thường được xem là đối lập nhau.
Về
phía xã hội học, chẳng hạn, người ta vẫn tiếp tục đối lập “quan điểm” của
Durkheim, Marx và
Weber về mặt học thuật; và người ta kéo dài sự đối lập giữa chủ nghĩa cấu trúc
và chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cấu trúc phái sinh hoặc kiến tạo và tương tác, khoa học xã hội vĩ mô và vi mô, chủ nghĩa khách quan
và chủ nghĩa chủ quan, v.v.. Sau cùng, trên hết, chủ đề
của các khoa học này - cấu trúc xã hội, quan hệ xã hội hoặc hành vi xã hội - đã
khơi dậy sự tò mò ngày càng tăng trong các lĩnh vực lâu nay được coi là nằm bên
ngoài lĩnh vực được đề cập: sinh học tiến hóa, tập tính học hay sinh thái học về
các hành vi, nhân học thời đồ đá, tiền sử học hay các khoa học thần kinh.
Đứng
trước sự phân tán và sự ít được tiếp nhận, bên trong cũng như bên ngoài, của những
thành tựu của các ngành khoa học này, cần có một chương trình làm việc tập thể
và liên ngành để mang lại một khung có tính tích hợp và hợp nhất cho
khoa học xã hội. Định hướng nghiên cứu như vậy giả định một sự lao động có tính
hệ thống để chiếm lĩnh một cách phê phán và tổng hợp sáng tạo kết quả nghiên cứu
từ nhiều ngành, bên trong cũng như bên ngoài lĩnh vực các khoa học xã hội,
vốn đều đóng góp vào kiến thức về các hình thái xã
hội và hành vi.
Tham vọng của những nhà sáng lập
Ngay
trong chính trào lưu chuyên nghiệp hóa của chúng trong suốt thế kỷ 20, tất yếu
đi kèm với một sự tiêu chuẩn hóa-xác lập lề thói các nghiên cứu, các khoa học
xã hội dần dần đánh mất tham vọng khoa học của những nhà sáng lập vĩ đại, trong
số đó phải kể đến Karl Marx, Émile Durkheim và Max Weber.
Mỗi
người trong số đó đều tìm cách làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản mà nhân loại phải
đối mặt trong suốt lịch sử của mình - phương thức sản xuất, phân công lao động,
sự thống trị, các hình thức quan hệ họ hàng, mối quan hệ với cái thiêng liêng,
các loại hình tượng (thần thoại, hệ tư tưởng, khoa học, v.v.), v.v.. - và do đó
đã không ngần ngại rời bỏ hiện tại để đi sâu vào lịch sử rất dài hạn, so sánh
các xã hội rất khác nhau (từ xã hội săn bắn hái lượm đến xã hội tư bản, từ châu
Âu và Bắc Mỹ đến Trung Quốc và Ấn Độ, qua châu Phi, Nam Mỹ và Úc), và đặt các
câu hỏi về mặt xã hội học tổng quát xuyên suốt tất cả các xã hội
loài người được dân tộc học, lịch sử hoặc xã hội học biết đến.
Chỉ
lấy trường hợp của Karl Marx, ông đã say mê cuốn Nguồn gốc các
loài của Charles Darwin, cuốn sách mà ông cho là, “trong lĩnh vực lịch
sử thiên nhiên”, đã cung cấp “cơ sở” cho quan niệm duy vật của ông về lịch sử[4],
trong khi vẫn chiếm dụng công trình của các nhà sử học (François Guizot,
Adolphe Thiers) và các nhà kinh tế học (David
Ricardo, Adam
Smith) cùng thời để thực hiện việc phân tích phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Và không phải ngẫu nhiên mà “ông Marx sau cùng”, ngày càng bị ảnh
hưởng bởi một tâm thế khoa học/libido sciendi, lại đắm mình vào các
công trình sử học và dân tộc học tiến hóa vào thời đại của mình: bỏ rơi dự án
viết những tập cuối cùng của cuốn Tư Bản Luận mà đáng lẽ ông
phải thực hiện, Marx, trong tám năm cuối đời, đã để lại khoảng ba mươi nghìn
trang ghi chép về các sách ông đọc, điều này báo trước sự chuẩn bị có thể có về
một cuốn về lịch sử rộng lớn của các xã hội con người hơn là chỉ sự nghiên cứu
sâu hơn duy nhất về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa[5].
Một
số người có thể nghĩ rằng đây là những dấu tích của một thời đại không còn lý
do để tồn tại, nhưng họ hoàn toàn sai lầm. Các công trình vĩ đại của các khoa học
xã hội và nhân văn luôn đề cập đến những vấn đề cơ bản hoặc những điểm mấu chốt
liên quan đến các đặc tính của hiện thực xã hội. Các tác giả của chúng đã lấy cảm
hứng từ các công trình từ nhiều lĩnh vực kiến thức và thậm chí, đối với một số người, còn mơ ước về sự thống nhất của
nhiều ngành trong một “khoa học về con người” hoặc một “khoa học xã hội” lớn.
Những
gì hiện diện ở Marx, Durkheim và Weber đã được các tác giả như Norbert Elias
hay Pierre
Bourdieu theo đuổi. Còn về sự nghiệp ấn tượng và tuyệt vời về mặt
uyên bác và trong sáng lý thuyết của nhà nhân học xã hội Alain Testart, đã qua
đời vào năm 2013, nó là chứng minh rằng chúng ta, ngay cả hiện nay, đồng thời
có thể suy nghĩ rộng, sâu và chặt chẽ, về toàn bộ các xã hội con người mà chúng
ta có tư liệu. Không quan tâm đến xu hướng thời thượng, Testard đã đấu tranh
cho việc phải tính đến, trong khuôn khổ của một xã hội học tổng quát mang tính
so sánh, tất cả các xã hội được biết đến thông qua dân tộc học, tiền sử học, khảo
cổ học, sử học và xã hội học[6].
Cái xã hội vượt lên trên các khoa học xã hội
Nhưng
các khoa học xã hội đã được cộng nhận (đặc biệt là xã hội học, nhân học và sử học)
không phải là những ngành duy nhất quan tâm đến các xã hội và các hành vi xã hội
của con người. Sinh học tiến hóa quan tâm đến các đặc điểm xã hội của các xã hội
động vật khác nhau, đến nguồn gốc của ngôn ngữ loài người trong tính liên tục của
các hệ thống giao tiếp động vật hoặc sự xuất hiện của các quá trình truyền tải
văn hóa song song với các cơ chế kế thừa sinh học; tập tính học so sánh cho
phép chúng ta nắm được những điểm giống nhau và khác nhau giữa các xã hội động
vật về quan hệ giới tính, sự chăm sóc của cha mẹ, sự thống trị, cách “quản lý”
các xung đột, hoặc thực tiễn của những sự trao đổi và tương trợ; cổ nhân học và
tiền sử học cố gắng tái tạo lại bức chân dung của những hình thái xã hội đầu
tiên của các xã hội loài người; tâm lý học và khoa học thần kinh khi nghiên cứu
về các hành vi xã hội, tất cả các ngành này đã không ngừng tạo ra kiến thức về loài người, như một loài “siêu xã hội”.
Môi
trường khoa học mới này, trong đó các khoa học thường được coi là “xã hội” phát
triển không phải là một bối cảnh bên ngoài đơn thuần mà chúng có thể chọn bỏ
qua. Nó buộc chúng ta phải xác định lại các đối tượng, sửa đổi các khung giải
thích thông thường được chấp nhận và trình bày lại các tham vọng của các ngành
khoa học này. Công trình của các ngành khoa học khác này giúp biểu lộ những gì
là nét đặc thù của loài người, về phương diện xã hội, tinh thần và hành vi. Bằng
cách sắp xếp lại các năng lực, hành vi và hình thức của đời sống xã hội đặc
trưng cho loài người so với các năng lực của các loài động vật khác[7],
bằng cách làm nổi bật các đặc điểm xã hội, sinh học hoặc tâm lý của loài người
kể từ thuở sơ khai của loài người, tất cả những kiến thức này góp phần vào sự hiểu biết về các sự kiện xã hội dưới hình thái
con người của chúng.
Do
đó, logic của các chuyên ngành và các chuyên gia bị giam cầm trong lãnh thổ
ngành của chúng và thường hơn nữa là phụ ngành, phải được cân bằng bởi lao động
của các nhà bác học được cắm chặt vào một thực tiễn khoa học nghiêm ngặt nhưng
được động viên bởi một tinh thần tổng hợp, không quan tâm đến các ranh giới giữa
các ngành, đến sự phân định theo trình tự thời gian và sự phân chia địa lý thường
được chấp nhận, và quan tâm đến việc mang lại câu trả lời cho những vấn đề lớn
nảy sinh trong các xã hội loài người.
Chính
tham vọng này đã thúc đẩy sự ra đời vào năm 2020 của tủ sách Các Khoa học
xã hội về sự sống tại NXB La Découverte[8].
Với bộ sưu tập này, việc cần làm là tạo ra không gian để tái cân bằng các năng
lực khoa học và do đó hoạt động cho sự ra đời của một quan niệm về nhân loại được
nuôi dưỡng bởi nền văn hóa khoa học tiên tiến nhất của thời đại chúng ta. Nhưng
công trường cho phép các khoa học xã hội kết nối lại với tham vọng lớn của những
người sáng lập phụ thuộc nhiều hơn vào sự lao động tập thể ở quy mô lớn.
Sự cần thiết thực hiện sự tổng hợp
Để bắt
đầu đáp lại thử thách này, một tập thể đã được thành lập vào tháng 6 năm 2020:
nhóm “Edgar Theonick[9]”.
Cách tiếp cận được triển khai lấy cảm hứng từ một thí nghiệm được thực
hiện bởi các nhà toán học Pháp xung quanh nhóm “Nicolas Bourbaki”. Đằng sau biệt
hiệu Nicolas Bourbaki, một nhà toán học tưởng tượng, ẩn náu một nhóm các nhà toán
học trẻ vốn, vào những năm 1930, đã nhận thấy rằng bộ môn của họ bị phân tán
quá nhiều thành các ngành và các ngôn ngữ riêng biệt. Jean Dieudonné đã tóm tắt
một cách hoàn hảo, mặc dù quá khiêm tốn, ý định của nhóm khi nói: “Chúng ta đã
đến thời điểm cần phải chỉnh đốn lại trong các tài sản đã được tích lũy từ hơn
một thế kỷ nay trong toán học. […] Chúng tôi chỉ giới hạn trong việc cố gắng sắp
xếp lại các kết quả và các nguyên tắc đã được thiết lập, nói chung từ năm 1800
đến năm 1930. Đây là điều mà nhóm Bourbaki đã cống hiến.” (Nhận
xét trong chương trình truyền hình Apostrophes, ngày 12 tháng 6 năm 1987)
Mặc
dù có sự khác biệt rõ ràng giữa khoa học cấp đơn (lý thuyết) như toán học và
khoa học cấp kép (lý thuyết và thực nghiệm) như khoa học xã hội, lịch sử của
các khoa học cấp kép, chẳng hạn như vật lý hoặc sinh học, cho thấy rằng khó
khăn không phải là không thể vượt qua.
Cho
đến nay, các khoa học xã hội đã chống lại những biến đổi của bối cảnh khoa học
bằng sự tự giam mình và tinh thần tự bảo vệ theo ngành[10],
vốn dựa trên một phối cảnh thuần túy có tính khoa học luận bao gồm suy nghĩ rằng
các bộ môn, khi chúng tồn tại ở một thời điểm nhất định của lịch sử, phải phát
triển song song các quan điểm theo ngành hoàn toàn tự chủ và
khép kín. Tuy nhiên, lịch sử chứng minh rằng xã hội học, nhân học và sử học đã
không ngừng phát triển trong các đối tượng cũng như trong các phương pháp của
chúng. Đã có lúc xã hội học của Goffman bị coi là một dạng tâm lý xã hội[11],
và quan sát dân tộc học bị coi là không phù hợp với mục tiêu của xã hội học. Mọi
thứ đã thay đổi rất nhiều, và điều đó đáng được chào mừng.
Nỗi
sợ hãi bị đè bẹp bởi các ngành mạnh hơn về mặt thể chế cũng là một thực tế mà
ta không thể ngây thơ bỏ qua. Lịch sử của các khoa học cho thấy rằng các khoa học
có thứ bậc và có quyền lực không đồng đều về mặt học thuật: do đó, vì những lý
do lịch sử, vật lý học thống trị hóa học, khoa học vật chất thống trị khoa học
sự sống, và toàn bộ các khoa học về vật chất và sự sống thống trị các khoa học
xã hội (chính các khoa học xã hội cũng được tổ chức theo cách thức thứ bậc rất
chặt chẽ).
Nhưng
việc bị thống trị, chẳng hạn, bởi sinh học tiến hóa sẽ không ngăn cản các nhà
nghiên cứu khoa học xã hội nhận thức về sự tiến hóa của các loài và những hậu
quả mà quá trình tiến hóa đã gây ra đối với những gì cấu thành đối tượng trung
tâm của họ: hành vi con người và các hình thái con người của cuộc sống xã hội.
Các khoa học xã hội sẽ được hưởng lợi từ việc rút ra tất cả các hệ quả từ các
công trình về các vấn đề về hành vi, nhận thức và tổ chức của cuộc sống trong
xã hội, được tạo ra bởi các bộ môn bắt nguồn một phần từ khoa học sự sống.
Thương
tiếc cho triết học xã hội không bao hàm việc từ bỏ mọi chương
trình khoa học tổng quát và đầy tham vọng. Tuy nhiên, đáp ứng thách thức của một
tham vọng như vậy, đòi hỏi phải đề xuất các đáp án phù hợp với tình trạng tiến
bộ khoa học hiện nay. Để không rơi lại vào “lý thuyết thuần túy” (cho dù đó là
lý thuyết của các nhà lý thuyết về khoa học xã hội không dựa vào các tài liệu
thực nghiệm hay của các nhà triết học xã hội), chúng ta phải tìm cách thực hiện
một lao động tổng hợp sáng tạo (lao động tích hợp và hợp nhất) trên
cơ sở của những công trình không chỉ mang tính chất tư biện, mà còn được xây dựng
về mặt lý thuyết và có cơ sở về mặt thực nghiệm.
Và để
thực hiện được một công trình tổng hợp như vậy, cần phải khôi phục ý nghĩa cho
việc sản xuất ra những tác phẩm thường bị coi thường là “thứ yếu/de seconde
main” vốn rốt cuộc đã bị thất sủng, điều có lợi cho các công trình được coi là
“đầu tay/de première main”[12].
Mô hình lý tưởng về sự sản xuất tri thức được bảo vệ ngày nay trong các khoa học
xã hội là mô hình thủ công, trong đó các nhà nghiên cứu chủ yếu sử dụng dữ liệu
thực nghiệm mà chính họ đã tạo ra. Tuy nhiên, sự sùng bái cuộc khảo sát trên thực
địa được thực hiện bởi một cá nhân biệt lập (trường hợp của hầu hết các luận án
tiến sĩ) hoặc bởi một nhóm nhỏ (trường hợp một số ít các công trình nghiên cứu)
tạo thành một trở ngại cho công trình tổng hợp, và cùng lúc, cho một bước tiến
thực sự của các khoa học xã hội.
Cho
dù có một hiệu năng về mặt đào tạo khi buộc những người mới tham gia không chỉ
học những sự tinh tế và khó khăn trong việc tạo ra dữ liệu thực nghiệm đáng tin
cậy mà còn cả tính phản tư phê phán về bản chất của các dữ liệu đó, nhưng mô
hình nghiên cứu “đầu tay” này có thể nhanh chóng trở thành một lực hãm đáng kể
đối với kiếnthức. Bởi vì nếu chúng ta
xem xét hiện trạng của kiến thức có ý nghĩa nhất của
chúng ta, chúng ta mắc nợ những nhà tổng hợp vĩ đại là Marx, Weber, Durkheim,
Mauss, Bloch, Elias, Dumézil, Lévi-Strauss, Bourdieu hoặc Testart, chỉ kể đến một
số ít “nhân vật lớn” trong các khoa học xã hội.
Nếu Marx đã phải tự mình sản xuất tất cả các dữ liệu làm cơ sở cho các tập khác
nhau của cuốn Tư Bản Luận, thì có lẽ ông ấy đã không viết được một
phần mười của những tập này. Và còn phải nói gì về một cuốn sách quan trọng
như Những hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo (Les formes
élémentaires de la vie religieuse) mà tác giả (Durkheim) chưa bao giờ gặp một
thổ dân Úc?
Khi
ta xem xét từ một cái nhìn tổng hợp các công trình đa dạng nhất của các ngành
khoa học phụ trách các vấn đề có tính chất xã hội, ta bị ấn tượng bởi việc sự
phong phú và đa dạng của các sự kiện thực nghiệm được thiết lập và diễn giải,
liên quan đến các xã hội, các thời đại hoặc các nhóm, thường che giấu một số lượng
tương đối nhỏ các vấn đề được xử lý. Có những quá trình hoặc cơ chế cơ bản, bất
kể hình thái xã hội nào, đã được nghiên cứu và đôi khi được các chuyên gia khác
nhau không giao tiếp với nhau đặt những tên khác nhau, điều không thể làm cho
chúng xuất hiện rõ ràng như vậy[13].
Các
khoa học xã hội phải huy động mọi thứ, một cách tập thể, để đạt được những gì
sinh học hoặc vật lý học, chẳng hạn, đã thành công với Charles Darwin và lý
thuyết của ông về sự tiến hóa của các loài bằng sự chọn lọc tự nhiên, hoặc với
Isaac Newton và lý thuyết vạn vật hấp dẫn của ông, nghĩa là xây dựng những khung
tổng quát, tổng hợp, tích hợp và hợp nhất, trong đó rất nhiều
công trình khoa học riêng biệt được định vị, định hướng và nhận được ý nghĩa.
Quan
niệm này đòi hỏi phải đặt lại vấn đề về 1) tổ chức tập thể của sự phân công lao
động để làm cho sự tồn tại của các tác phẩm tổng hợp tích hợp và hợp nhất cũng
như các tác phẩm “đầu tay” không những khả thi và thậm chí còn cần thiết nữa và
về 2) khoa học luận mang tính tương đối, duy danh hay kiến tạo một cách quá đáng của đại đa số các nhà nghiên cứu khoa học xã hội,
bằng cách phục hồi các ý niệm về tính tích lũy khoa học và quy
luật xã hội.
Lao
động tổng hợp lý thuyết-thực nghiệm không chỉ có thể mà
còn phải được thực hiện để tiết kiệm thời gian cho các thế hệ
nghiên cứu tương lai và nâng cao kiến thức khoa học về thế giới xã hội, một cách tổng quát, có ý thức và chặt
chẽ hơn. Việc tìm kiếm các vấn đề chung, các sự kiện chính, các quá trình hoặc
cơ chế làm nền tảng cho nhiều phân tích đặc thù đã được thực hành một cách rất
có ý thức trong các lĩnh vực kiến thức
khoa học khác bởi một số nhà toán học vĩ đại (Alexander Grothendieck và các nhà
toán học của “nhóm Bourbaki” chẳng hạn), các nhà vật lý (Newton, Maxwel,
Einstein, Schrödinger, v.v.) hoặc các nhà sinh vật học (Darwin). Đây cũng là điều
mà nhiều nhà khoa học xã hội vĩ đại đã làm theo cách riêng của họ, mặc dù thường
ít rõ ràng và ít mang tính hệ thống hơn.
Và
ngay cả khi đây không phải là mục tiêu ban đầu nhắm đến, một bước tiến như vậy
sẽ có những hệ quả giáo dục đáng kể. Nếu điều quan trọng là chỉ ra rằng trong sự
phát triển đa dạng của các khoa học xã hội, có một số ít định luật (nguyên lý,
vấn đề, quy trình hoặc cơ chế cơ bản) ẩn náu, thì đó cũng là vì điều này sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giảng dạy kiến thức nền tảng của các khoa học này. Bởi
vì có thể dạy những điểm mấu chốt cơ bản, kể cả ở cấp độ trẻ em hoặc thanh thiếu
niên, giả định rằng một lao động trừu tượng và tổng hợp đáng kể được thực hiện ở
thượng nguồn.
Một sự xét lại khoa học luận
Nhận
thức về sự tồn tại của các vấn đề lớn, các quá trình và cơ chế cơ bản không ngừng
hoạt động trong nghiên cứu khoa học xã hội dẫn đến việc xét lại khoa học luận
mang tính tương đối và duy danh được chấp nhận rộng rãi trong các khoa học xã hội.
Chúng ta phải đặt khái niệm về tính tích lũy khoa học và về định
luật (về những bất biến, những hằng số hoặc những đều đặn) trở lại
trung tâm của những suy tư của chúng ta, bằng cách huy động công trình của các
tác giả, từ Émile Durkheim đến Alain Testart, bao gồm Pierre Bourdieu, Maurice
Godelier và Françoise Héritier[14].
Trái
ngược với những gì có thể được hàm chứa trong một quan niệm chỉ thấm đậm tính
kiếntạo và tương đối, vốn chỉ
thấy trong các công trình khoa học những quan điểm không thể dung hòa, thay đổi
theo thời đại và theo bối cảnh khoa học hoặc ngoại khoa học, không thể thực sự
giao tiếp với nhau và do đó trở thành chủ đề tranh luận và kết nối, những vấn đề
mà các khoa học xã hội xử lý, và đã được nhiều thế hệ nhà nghiên cứu trong lịch
sử cố gắng giải đáp, đều rất thực tế và dai dẳng.
Cho
dù chúng ta có xem xét vấn đề về sự phân hóa xã hội của các hoạt động hoặc chức
năng, của mối quan hệ thống trị, của sự xã hội hóa và các quá trình sáp nhập thế
giới xã hội, của sự truyền tải văn hóa các tri thức hay của sự sản xuất các đồ
tạo tác đủ loại, để chỉ lấy một số ví dụ, chúng ta có thể nói rằng tính vĩnh cửu
của các vấn đề lớn trong các công trình khoa học đa dạng nhất không phải do nhận
thức hay thế giới quan mà là do chính cấu trúc của thực tế xã
hội.
Một
khi họ đồng ý đối đầu với các vấn đề trên, các nhà nghiên cứu nhất thiết vấp phải
một số vấn đề hạn chế vì chúng liên quan đến các đặc tính khách quan của
thực tại. Họ có thể, tùy thuộc vào tình trạng của ngành của họ và văn hóa
khoa học cá nhân của họ, đặt ra những vấn đề này một cách khác, hoặc thậm chí
phát hiện ra những vấn đề khác, nhưng sẽ quá đáng nếu nói rằng họ hoàn toàn
“phát minh” hoặc “tạo ra” những vấn đề này. Và khi họ giải quyết được một số vấn
đề hoặc khi họ thành công trong việc tích hợp một nhóm vấn đề vào một lý thuyết
chặt chẽ, họ đã thực hiện được cái có thể gọi là tiến bộ khoa học.
Mà, đối
với tôi, điều đặc biệt quan trọng là phải khẳng định lại khả năng của một tiến
bộ khoa học ở một thời đại đã làm cho cụm từ này trở thành điều cấm kỵ. Bởi vì
không còn “tin” vào sự tiến bộ của khoa học, là ức chế mọi ham muốn tìm kiếm
trong lịch sử của các khoa học xã hội các điểm tựa để có thể rút ra những quy
luật và tiến bước về mặt khoa học một cách chắc chắn hơn.
Xây dựng các quy luật
Do
đó, các khoa học xã hội nên hoàn toàn đảm nhận việc sử dụng thuật ngữ “quy luật”
(hoặc những gì có thể được biểu hiện ở nơi khác dưới dạng những thuật ngữ như
“bất biến”, “nguyên lý”, “nền tảng” hoặc “hằng số”), bằng cách chấp nhận một
nhiệm vụ khó khăn, nhưng không phải là không thể thực hiện, nhiệm vụ xây dựng
các quy luật hoặc các cơ chế xã hội chính trên cơ sở của nhiều nghiên cứu được
thực hiện trong các khoa học xã hội trong khoảng một thế kỷ rưỡi qua. Tham vọng
này, hiện diện từ những bước đầu của ngành (với Comte và Durkheim), phần lớn đã
bị bỏ rơi sau đó[15].
Nhưng
điều đó không có nghĩa là các công trình được tích lũy từ cuối thế kỷ 19 không
chứa đựng nhiều cơ chế tổng quát hoặc các bất biến bất thành văn, không được
trình bày, hoặc được trình bày trong một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ thực tế hơn
của quy luật. Thật vậy, không thể nào có được sự phân tích hay diễn giải nếu những
người đã phát triển chúng lại không có trong tâm trí của họ những khung tương đối
tổng quát và ổn định cho phép họ không chỉ hiểu một sự kiện nhất định, vào một
thời điểm và ở một nơi nhất định, mà còn hiểu cả nhiều sự kiện khác, vào những
thời điểm khác và ở những nơi khác.
Ở đầu
thế kỷ 21, một nhà nghiên cứu sẽ dễ dàng nói đến khái niệm, lý thuyết hoặc mô
hình, nhưng rất hiếm khi nói đến “quy luật” hoặc “cơ chế tổng quát”, do
đó gây ấn tượng rằng những gì đã được chinh phục ở đây, về một xã hội, một thời
kỳ, một nhóm hoặc một lĩnh vực các thực tiễn nhất định sẽ không nhất thiết phải
đúng ở nơi khác, và khi đó, giống như trong huyền thoại về Sisyphus, có một nhiệm
vụ phải được thực hiện đi thực hiện lại, vì sự phân tích tùy thuộc vào quan điểm
và sự khéo léo của nhà nghiên cứu hơn là vào các đặc tính của các sự kiện được
nghiên cứu. Trong các khoa học mà câu hỏi về tất định luận vẫn thường xuyên được
tranh luận[16],
ý tưởng về việc xây dựng các quy luật còn lâu mới là hiển nhiên.
Nếu
vật lý hoặc sinh học tiến hành theo cách này, chúng sẽ không bao giờ có thể
phát hiện những lực chính, những nguyên lý hay những quy luật vĩ đại chi phối vật
chất và sự sống và do đó sẽ không thể tự cấu thành như là những khoa học có
tính tích lũy thực sự, với những kết quả được chúng ta công nhận từ nay. Và người
ta sẽ nhầm lẫn nghiêm trọng khi nghĩ rằng, đối với Newton hay Darwin, thao tác
đó sẽ đơn giản hơn đối với các nhà xã hội học, nhân học hay sử học ngày nay, vì
bản chất của đối tượng của chúng. Một sự tham khảo đơn giản lịch sử các khoa học
cho phép chúng ta thấy rằng những kháng cự hoặc bác bỏ những phương pháp tiếp cận
mang tính hợp nhất này đã từng có đối với những đối tượng hoàn toàn khác với
các đối tượng xã hội.
Các
vấn đề lớn được lặp đi lặp lại mà các khoa học xã hội xử lý có thể được giải
thích bởi việc là chính bản thân thực tại áp đặt một số đường nét chính mà các
lý thuyết cố gắng trình bày, một cách ít nhiều thích đáng. Ngay cả khi không phải
tất cả các nhà khoa học xã hội cũng luôn biết trình bày rõ ràng những vấn đề cơ
bản tạo cơ sở cho nghiên cứu của họ là gì – đã có bao nhiêu luận án có kết quả
phong phú hơn những gì người đã thực hiện chúng nói! - ta có thể nói rằng
những vấn đề này luôn được thể hiện, ngầm ẩn hoặc rõ ràng, trong các nghiên cứu
được đề cập.
Tuy
nhiên, một số tác giả đã liều lĩnh hơn khi bất chấp các điều cấm chỉ chống chủ
nghĩa thực chứng. Tuy chưa bao giờ phát triển những vấn đề này trong các văn bản
khoa học luận, một tác giả như Pierre Bourdieu đôi khi đã sử dụng khái niệm
“quy luật[17]”.
Tương tự như vậy, Françoise Héritier đặt trọng tâm nghiên cứu của mình trong việc
“tìm cái chung dưới cái riêng” và “cố gắng tìm ra các quy luật[18]”.
Và ta cũng có thể nêu bật đóng góp của Maurice Godelier về “các nền tảng của đời
sống xã hội[19]”
hoặc của Alain Testart là người rõ ràng tìm kiếm quy luật[20].
Trường
hợp của tác giả sau, một nhà nhân học xã hội nhưng đã đặt sự nghiệp của mình
vào xu hướng của xã hội học so sánh tổng quát, là điều đặc biệt thú vị. Được
đào tạo như một kỹ sư (tốt nghiệp trường École des Mines/Trường Mỏ) trước khi
trở thành nhà nhân học, ông có đủ kiến thức về các khoa học về vật chất để biết rằng chúng đã có thể tổ chức
bên trong chúng một cực lý thuyết tổng hợp và một cực phân tích lý thuyết-thực
nghiệm đặc thù hơn về nhiều hiện tượng vật lý có thể quan sát được.
Là một
người có học thức uyên thâm tiếp nối những Marx, Morgan, Durkheim, Weber,
Fustel de Coulanges và Marc Bloch, thông thạo một khối lượng đáng kể các dữ liệu
lý thuyết-thực nghiệm “thứ yếu”, và hầu như không tự mình thực hiện nghiên cứu
điền dã (tuy nhiên, sau một điều tra thực địa được thực hiện về các thổ dân
Úc), ông bảo vệ ý tưởng rằng cần phải lấy toàn bộ các xã hội có dữ liệu được tiền
sử học, khảo cổ học, sử học, dân tộc học và xã hội học ghi lại để có thể rút ra
các quy luật, và do đó chấp nhận “sự phân công lao động đã có hiệu lực từ lâu
trong nhiều bộ môn khác và đã từng mang lại kết quả[21]”.
Chúng
ta sẽ rất khôn ngoan nếu học bài học này và cùng nhau tiến thêm một bước nữa để
hướng tới một ngành khoa học xã hội xứng đáng với tên gọi. Điều này đòi hỏi một
niềm tin khoa học mạnh hơn một chút, một sự tin tưởng hơn một chút vào sự phong
phú của các công trình được tích lũy trên phạm vi quốc tế trong hơn một thế kỷ
rưỡi, và ít tranh cãi vô bổ hơn, nửa khoa học nửa chính trị, vốn chỉ biết tiếp
thêm sức mạnh cho những diễn ngôn vừa mang tính thù hận và vừa ngu ngốc về bản
chất ý thức hệ được cho là của khoa học này.
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: “Manifeste
pour la science sociale”, AOC,
9.01.2021.
Chú thích:
[*] Nhà xã hội học, giáo sư xã hội học tại Trường sư phạm cao cấp ở Lyon
(Trung tâm Max Weber).
[1] Tôi
xin được cám ơn Laure Flandrin và Francis Sanseigne đã bỏ công đọc lại văn bản.
[2] Mà tôi sẽ gọi một cách ngắn
gọn là “các khoa học xã hội” trong phần còn lại của văn bản này, ý thức rõ rằng
những từ “nhân văn” và “xã hội” ẩn chứa những quan niệm rất khác nhau về bản chất
và mục tiêu của các khoa học được đề cập, và thậm chí cả một sự lưỡng lự về
tính chất khoa học thực sự của kiến thức được tạo ra. Tôi cũng sẽ không đề
cập đến việc một số nhà kinh tế về phần mình, ngược lại với mọi logic, đặt
ngành của họ - vì tính ưu việt của nó - bên ngoài các khoa học xã hội.
[3] Xem
Bernard Lahire, Thế giới số nhiều. Tư duy sự thống nhất của các khoa học
xã hội/Monde pluriel. Penser l’unité des sciences sociales, Paris, Seuil,
Couleur des idées, 2012. Tuy nhiên, quá trình chuyên môn hóa này, được quan sát
trong tất cả các lĩnh vực khoa học không phải là “được quản lý” hay “được tổ chức”
theo cùng một cách trong tất cả các bộ môn. Ví dụ, vật lý học tiếp đón bên
trong nó nhiều nhà vật lý thực nghiệm cũng như các nhà vật lý lý thuyết, những
tổng hợp được các nhà vật lý lý thuyết đảm nhận tuy họ không bao giờ được giải
phóng khỏi yêu cầu tạo ra các khung lý thuyết thích hợp với tất cả các kết quả
thực nghiệm có sẵn.
[4] Thư
Marx viết cho Engels đề ngày 19 tháng 12 năm 1860.
[5] Xem Lawrence Krader (chủ
biên), Sổ tay dân tộc học của Karl Marx, Các nghiên cứu của Morgan,
Phear, Maine, Lubbock, được ghi lại và hiệu đính/The Ethnological notebooks of
Karl Marx, Studies of Morgan, Phear, Maine, Lubbock, transcribed and edited,
với phần giới thiệu của Lawrence Krader, Van Gorcum & Comp. B. V.,
Assen, 1974; Michael Krätke, “Marx cuối cùng và Tư bản luận/Le dernier
Marx et le Capital”, Actuel Marx, số 37, 2005, tr.
145-160 và Kolja Lindner, Le Dernier Marx, Toulouse, Éditions de l’Asymétrie,
Réverberation, 2019.
[6] Xem Alain Testart, “Lịch
sử toàn cầu có thể bỏ qua bộ tộc Nambikwara không? Một sự biện hộ cho dân tộc học
sử học/L’histoire
globale peut-elle ignorer les Nambikwara? Plaidoyer pour l’ethnohistoire”, Le
Débat, 2009/2, n ° 154, tr. 109-118, và đặc biệt là phần đầu tiên của tác
phẩm cuối cùng của ông chưa xuất bản: Các nguyên lý xã hội học tổng
quát/Principes de sociologie générale, Tập I.
[7] Ngay cả khi chúng dường
như chỉ nói đến những động vật không phải con người, các công trình tập tính học
vẫn liên tục so sánh, một cách ngầm ẩn hoặc rõ ràng, ngôn ngữ, quá trình học tập,
cách sử dụng đồ tạo tác, hành vi và tổ chức xã hội của con người và không phải
là con người. Do đó, chúng luôn cho chúng ta hiểu biết cả về các đặc tính của
xã hội và hành vi của con người cũng như về các xã hội và hành vi của các loài
động vật không phải con người.
[8] Với sự hỗ trợ nhiệt tình
của Stéphanie Chevrier (Giám đốc điều hành của La Découverte) và Bruno Auerbach
(Giám đốc văn học).
[9] Được tạo ra từ sự đảo chữ
tên của một người hợp nhất nổi tiếng. Nhóm “Edgar Theonick” có những buổi họp
hàng tháng kể từ tháng 6 năm 2020.
[10] Một chủ nghĩa nghiệp đoàn
vẫn duy trì quyền tự do cho các công trình được xem là cởi mở hơn đối với cuộc
đối thoại liên ngành (đặc biệt với khoa học về nhận thức) nhưng trên thực tế lại
mang tính phá hoại nhất đối với logic riêng biêt của các khoa học xã hội.
[11] Yves Winkin, “Erving
Goffman: chân dung của nhà xã hội học thời thanh niên/Erving Goffman: portrait
du sociologue en jeune homme”, trong Erving Goffman, Các thời khắc
và các con người/Les Moments et leurs hommes, Paris, Seuil / Minuit, 1988,
tr. 87.
[12] Đề nghị tham khảo phần
khai triển mà tôi đã dành cho điểm then chốt này trong ““Đầu
tay/Première main” và “thứ yếu/seconde main”: những trở ngại cho sự tích lũy khoa học”/““Première
main” et “seconde main”: les obstacles à la cumulativité scientifique” (La
Part révée. Sự giải thích xã hội học của những giấc mơ. 2, Paris, La Discovery,
Laboratoire des khoa học xã hội, 2021, tr. 11-16).
[13] Đó là những gì tôi đã cố
gắng thể hiện trong một tác phẩm gần đây về sức mạnh biểu tượng và phép thuật
xã hội. Xem Đây không chỉ là một bức tranh. Tiểu luận về
nghệ thuật, sự thống trị, ma thuật và sự thiêng liêng/Ceci n’est pas qu’un
tableau. Essai sur l’art, la domination, la magie et le sacré, Paris, La
Découverte, Poche, 2020.
[14] Bernard Lahire, “Sự khốn
cùng của tương đối luận và sự tiến bộ trong các khoa học xã hội/Misère du
relativisme et progrès dans les sciences sociales”, La
Pensée, số 408, quý 4 năm 2021, sắp xuất bản.
[15] Charles-Henri Cuin, “Cách
tiếp cận hợp nhất trong xã hội học (có quy luật xã hội học không/La
démarche nomologique en sociologie (y a-t-il des lois sociologiques)?”, Swiss
Journal of Sociology, 32 (1), 2006, tr. 91-118.
[16] Bernard Lahire, “Chương
10: Quyết định luận xã hội học và tự do của chủ thể/Chapitre 10: Déterminisme
sociologique et liberté du sujet”, trong Daniel Mercure và Marie-Pierre
Bourdages-Sylvain (ed.), Xã hội và tính chủ quan. Những biến đổi đương
đại/Société et subjectivité. Transformations contemporaines, Nhà xuất bản Đại
học Laval, Quebec, 2021, tr. 157-170.
[17] Trong Vấn đề xã hội
học/Questions de sociologie (Paris, Minuit, 1980, trang 45), nhà xã hội
học nói về “quy luật” trong khi thừa nhận trước mặt người đối thoại rằng việc sử
dụng nó có thể “nguy hiểm”, đặc biệt khi nó được xem “như một định mệnh/destin,
một số mệnh/fatalité được khắc trong bản chất xã hội”, tức
là “quy luật vĩnh cửu” chứ không phải là một “quy luật lịch sử tồn tại chỉ
khi nào nó có điều kiện để được triển khai”. Trong bài giảng đầu tiên của mình
tại Collège de France, ông cũng phát biểu về “quy luật xã hội […] xác định rằng
vốn văn hóa sẽ hướng đến vốn văn hóa”. Pierre Bourdieu, Bài giảng về
bài giảng/Leçon sur la leçon, Paris, Minuit, 1982, tr. 19-20.
[18] Françoise Héritier, “Một
nhà nhân học trong thành phố. Phỏng vấn/Une
anthropologue dans la cité. Entretien”, L’Autre, Cliniques, cultures et
sociétés, 2008, Vol. 9, n° 1, p. 12.
[19] Maurice Godelier, Các
nguyên lý cơ bản của đời sống xã hội/ Fondamentaux de la vie sociale,
Paris, NXB CNRS, Các con đường nghiên cứu chính, 2019.
[20] Pierre Le Roux, “Nhà
nghiên cứu quy luật không mệt mỏi. Lòng kính trọng đối với Alain Testart.
(1945-2013)/L’inlassable
chercheur de lois. Hommage à Alain Testart. (1945-2013)”, Études
rurales, 193, 2014, tr. 9-12. Xem thêm bài đánh giá của tôi về Các Nguyên lý Xã
hội học Tổng quát của ông sẽ xuất hiện trên Le Monde des Livres ngày 10 tháng 9
năm 2021.
[21] http://www.alaintestart.com/biographie.htm
No comments:
Post a Comment