Sunday 23 January 2022

TẢN MẠN VỀ THI SĨ-THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH (Hoàng Hưng)

 



Tản mạn về thi sĩ - thiền sư Thích Nhất Hạnh    

Hoàng Hưng

22/01/2022

http://vanviet.info/van/tan-man-ve-thi-si-thien-su-thch-nhat-hanh/

 

Sáng nay nhà thơ-văn Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng gọi cho tôi qua messenger nói chuyện về Thầy Thích Nhất Hạnh. Ngay sau đó, có điện thoại Viber của nhà ngữ học Hoàng Dũng nói tôi viết mấy dòng về Thầy cho Văn Việt.

 

Sự ra đi của Thầy là cái tin lan truyền khắp FB và báo chí Việt Nam và thế giới. Tôi cũng vừa đưa lên FB bài viết tức thời của báo New York Times về sự kiện này. Tôi không muốn nói nhiều về việc ấy. Vì từ lâu tôi đã thấm nhuần tư tưởng cốt yếu của Thầy: “Không chết, không sợ hãi”, “Không sinh, không diệt”.

 

Tình cờ, hai người gọi cho tôi đều khiến tôi nghĩ đến câu chuyện một Thích Nhất Hạnh-Thơ, nhà thơ Thích Nhất Hạnh, người yêu thơ và nặng lòng với thơ Việt Thích Nhất Hạnh.

 

Ngay từ những năm 1970 sống ở miền Bắc, tôi đã biết đến một thi sĩ với những vần thơ tự do khá mới mẻ “chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện” bên cạnh những bản dịch tuyệt bích thơ tứ tuyệt Lý Trần.

 

Lần đầu tiên diện kiến, vào năm 2005 khi Thầy đưa tăng đoàn về Việt Nam, là trong buổi pháp thoại của Thầy ở Viện Goethe. Ấn tượng này đã được ghi lại gần như tức thời qua bài thơ “Bậc thầy” (bài này đã in trong tập Hành trình, NXB Hội Nhà văn, HN 2005, bản tiếng Anh “The Master” in trong chapbook “Hoang Hung, Poetry & Memoirs” do International Poetry Library of San Francisco xuất bảnvà đọc trong đêm thơ-văn “Echoes of Vietnam” tháng 3 năm 2012 ở Santa Cruz. Người cùng tôi dịch sang tiếng Anh và người đọc bản tiếng Anh trong đêm ấy là nhà thơ Ellen Bass, hiện đang là Đồng Chủ tịch Hội các nhà Thơ Mĩ (Co-chanceller, Academy of American Poets):

 

BẬC THẦY

Kính gửi Thiền sư Thích Nhất Hạnh

 

 

 

Thầy vào như hơi gió

Tăng đoàn rạng rỡ tuệ quang

 

An tịnh – mỉm cười

Đã về – đã tới

Bây giờ – ở đây

 

Tự do ngay phút này – hoặc không bao giờ nữa

 

Quả thực hình ảnh khinh khoái hiếm thấy của một thiền sư và ánh sáng trên gương mặt các học trò của Thầy chinh phục tôi nhiều hơn những lời thuyết giáo.

 

Năm 2012, được mời sang dự Kỉ niệm 30 năm Làng Mai, vợ chồng tôi đang đi vơ vẩn trên đồi thì Thầy từ thiền đường đi ra. Tôi vừa cúi chào, Thầy đã tiến tới tươi cười: “Nhà thơ đã làm được bài thơ nào chưa?” Làm sao Thầy biết khi chưa từng gặp mình ngoài đời? Chưa kịp định thần thì Thầy đã mời vào trong cốc.Tôi hồn nhiên thưa: “Thưa Thầy, tôi không quy y, không là Phật tử”. Thầy mỉm cười: “Phật tử đâu ở cái tướng?”. Tôi lại nói: “Thưa Thầy, tôi tiếc là mình không được gặp Thầy sớm hơn, nếu không chắc tôi đã đi theo Thầy. Bây giờ thì muộn rồi, thôi chắc xin hẹn Thầy kiếp sau!” (trong một bài thơ viết trên sông Hằng, tôi chả có lời nguyện “cho tôi chết giữa dòng để hóa thân thành nhà thơ hay thiền sư lang bạt đó sao?). Thầy mỉm cười, bảo: “Làm Thơ cũng Tu được mà!”.

 

Biết tôi có biết tiếng Pháp, thầy (qua sư cô Chân Không) nhờ tôi xem lại bản dịch cuốn sách “Bình thơ” tập họp những bài bình thơ mỗi dịp đầu Xuân của Thầy, do một người Pháp gốc Việt chuyển. Thầy yêu thơ Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Cầm… đến thế! Nhưng chuyển thơ Việt sang tiếng Pháp thì quả thật là khó!

 

Lòng yêu thơ Việt, nhạc Việt của Thầy cũng là lòng liên tài! Nhiều năm sau 1975, Thầy gửi quà giúp các nhà thơ, nhạc sĩ Việt Nam như Hoàng Cầm, Lê Thương… Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng chính là người đem những bài thơ Hoàng Cầm sang Pháp cho Thầy qua cô “Cần Thơ” (tức sư cô Chân Không – người thay mặt Thầy liên lạc với nhà thơ). Từ đó dẫn đến vụ án oan “Về Kinh Bắc”. Thầy cũng là người tác động đến các trí thức Pháp nổi tiếng viết thư cho ông Lê Đức Thọ đề nghị trả tự do cho Hoàng Cầm!     

 

Câu cuối cùng Thầy cầm tay tôi nói sau buổi sáng dắt tay tôi đi thiền hành trên đồi táo của Viện Phật học ứng dụng mà thầy mới lập ở Đức: “Hưng nhớ nhé, Thơ đi bằng hai chân: chánh niệm và hơi thở”. Một công án! Tôi sẽ phải giải công án này trong phần còn lại của đời mình.

 

Khi từ trên đồi táo xuống, tôi nhìn thấy ánh mắt “ghen tị” của nhiều đệ tử đã theo thầy lâu năm qua bao nhiêu gian khó. Tôi vội giải thích: “Thầy đến với tôi vì có cái duyên Thơ”.

Tôi đọc được cái bản nguyên Thi sĩ trong vị Cao Tăng.

 

                                                          *** 

 

Trong buổi gặp ở Làng Mai 2012, Thầy cho tôi cuốn Thơ của Thầy.

 

Xin ghi nhanh vài ấn tượng, nhận xét về Thơ Thích Nhất Hạnh.

 

 

Những bài thơ đầu tiên trong tập CHO BỒ CÂU TRẮNG HIỆN đầy cảm xúc, cảm giác của một tâm hồn thi sĩ đối với đất nước, dân tộc, nhân dân trong thời kì đau thương khốc liệt nhất, không giấu nổi nỗi đau và sự căm giận cái ác đang gieo chết chóc và tàn phá trên quê hương (đúng với tinh thần Phật giáo “dấn thân”, “nhập thế”); đồng thời đã sáng lên ánh sáng minh triết về hạnh phúc, về nụ cười, về hiện hữu:

 

… Bàn chông

Hầm sụp

Đoàn xe lửa giật mình

Tan hoang khu làng bom dội

Tầm vông nhọn – tiếng trực thăng đè trên ngực lép

Mây xám mùa trăng loạn, đã từ hôm nao xẩy cảnh

trẻ con đầu nát, thiếu phụ thây tan?

Đất sụp dưới chân anh, anh ngồi đó được sao?

Ôi tiếng kêu thương! tiếng kêu thương hai mươi năm của vết thương sâu trên thân hình Việt Nam nhức nhối

Chủ nghĩa và nhân danh

Những sợi dây nghiệp báo ai đem về ràng buộc lấy

thân hình dân tộc?

(Sài Gòn ơi đập tan đi ảo ảnh)

 

… Gió mang tiếng ca. Ngày ra đi em dặn:

Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát,

thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh.

Tôi đã về. Có tiếng hát ca, bàn tay trên liếp cửa

Hỏi rằng: “Có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì?”

Gió thì thầm: em nên hát ca

Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu

Hãy là đóa hoa, hãy là nụ cười,

Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch?

Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau

Tôi tìm em. 

(Như đêm dông tố loạn cuồng

Rừng sâu đen tối

Những cành cây sờ soạng

Đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi

Thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau)

Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng dậu

Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.

(Bướm bay vườn cải hoa vàng)

 

Ý thơ của Thích Nhất Hạnh đã được chuyển thành “Tâm ca” của Phạm Duy, thể hiện rõ nhận thức minh mẫn của thiền sư về “Kẻ thù” đích thực của dân tộc Việt Nam:

 

Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
Kẻ thù ta tên nó là gian ác
Kẻ thù ta tên nó là vô lương
Tên nó là hận thù
Tên nó là một lũ ma

Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
Kẻ thù ta mang áo mầu chủ nghĩa
Kẻ thù ta mang lá bài tự do
Mang cái vỏ thật to
Mang cái rổ danh từ
Mang cái mầm chia rẽ chúng ta

 

Thơ cuối đời của Thiền sư ở Pháp, đẫm chất Thơ và Thiên nhiên, Thiền vị đầy hương Việt:

 

Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá

Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng

Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa

Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật

Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất

Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca

Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày

Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở

Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ

Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chân mây

Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi

Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám

Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm

Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú

Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm

Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương

Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám

Thơ nơi từng bước chân thiền quán

Thơ nơi từng dòng chữ

Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.

 (Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

 

Những triết lý về tiểu ngã-đại ngã, chuyển hoá luân hồi, không phân biệt… được chuyển tải đầy cảm xúc lãng mạn trong Thơ, không giống chút nào thứ Thơ-Thiền truyền thống.

 

Đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi

Bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới

Hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây

Làm đọt lá trên cành xuân

Làm con chim non cánh mềm chiêm chiếp

vui mừng trong tổ mới

Làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng

Làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.

Tôi còn tới để khóc để cười

Để ước mong để lo sợ

Sự xuất nhập của tôi là hơi thở

Nhịp sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần

của hàng triệu trái tim.

Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước

Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du

Tôi là con ếch bơi trong hồ thu

Và cũng là con rắn nước trườn đi

Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái

Tôi là em bé nghèo Ouganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra,

hai bàn chân bằng hai ống sậy

Tôi cũng là người chế tạo bom đạn

Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á phi.

Tôi là em bé mười hai

Bị làm nhục nhảy xuống biển sâu

Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim

chưa biết nhìn biết cảm

Tôi là người đảng viên cao cấp, cầm quyền sinh sát trong tay

Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang chết dần mòn

trong trại tập trung cải tạo

Nỗi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân,

ấm áp cỏ hoa muôn lối

Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt,

ngập về bốn đại dương sâu.

Hãy nhớ gọi đúng tên tôi

Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng

tôi khóc tôi cười

Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một

Hãy nhớ gọi đúng tên tôi

Cho tôi giật mình tỉnh thức

Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ

Cánh cửa Xót Thương.

 

(Hãy gọi đúng tên tôi)

 

Lại có những bài dí dỏm, màu sắc hiện đại:

 

Phi cóc tính

Quả vị đầu tiên mà ta tu chứng

Là quả vị phi cóc tính

Nếu bạn bỏ cóc vào đĩa

Chỉ trong vài giây

Cóc sẽ nhảy ra.

Nếu bạn bắt cóc bỏ vào đĩa trở lại

Trong vài giây

Cóc lại sẽ nhảy ra

Giữ cóc trong đĩa

Thật là rất khó.

Bạn và tôi

Chúng ta đều có Phật tánh trong tâm

Đó thật là một niềm an ủi

Nhưng bạn và tôi

Chúng ta cũng có cóc tánh trong tâm

Vì vậy cho nên

Quả vị tu chứng đầu tiên của chúng ta

Là đạt tới

Phi cóc tính.

 

Hay những bài mang hình thức “Kệ” hay “Thiền ca” giản dị, rất “đời thường” mà sâu sắc, có sức hấp dẫn tuổi trẻ và người phương Tây:  

 

Giận nhau

Giận nhau trong tích môn

Thở nhìn bản môn cười

Trò ghét thương đắp đổi

Sông nước cứ đầy vơi

 

Giận nhau trong tích môn

Nhắm mắt nhìn mai sau

Trong ba trăm năm nữa

Em đâu và ta đâu?

 

Nằm chơi

Nằm chơi trong bản môn

Gối đầu trên núi tuyết

Hai tay ôm mây hồng

Thành núi đồi trùng điệp

 

Đổ rác

Đổ rác chốn bản môn

Nhìn cái nhìn bất nhị

Gửi gắm về tương lai

Bông hoa đầu thế kỷ.

 

Cô đơn

Cô đơn trong tích môn

Hãy ôm niềm hờn tủi

Ru nhẹ lời ca dao

Tuyết hoa rơi đầy núi.

 

(Tích môn bản môn)

 

Xin kết thúc với một bài thơ “Thiền” mà tôi thật sự tâm đắc:

Ngồi đây lắng tiếng chim bay

Ba ngàn thế giới không đầy tấc gang

Phương tây vừa khuất quạ vàng

Phương đông thỏ ngọc đã ngang đỉnh đồi

Trước sau có một mình tôi

Nghe như có tiếng đất trời gọi nhau

Xuất thiền lặng lẽ giây lâu

Lá xanh rèm liếp bên lầu sáng trăng

Sông xưa giờ đã thuận dòng

Gió theo tám hướng lòng không bận về

(Lòng không bận về)

 

Cùng một cảm xúc vũ trụ của bậc hành giả, nhưng Không Lộ thiền sư mười thế kỷ trước muốn hét lên một tiếng lạnh cả thái hư “trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”, còn Nhất Hạnh thiền sư hôm nay lại lặng lẽ nghe tiếng đất trời gọi nhau; người trước gửi chí vào câu thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán, người nay trải lòng qua nhịp lục bát Việt dịu mềm. Một bài thơ Thiền thật sự Việt Nam!

 

Hoàng Hưng

 

------------------------------------------------

 

Thơ Nhất Hạnh: những hóa thân mầu nhiệm

Huỳnh Như Phương

23 Tháng Một, 2022

http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tho-nhat-hanh-nhung-ha-thn-mau-nhiem/

.

Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Văn Tâm

22 Tháng Một, 2022

http://vanviet.info/van/cuoc-doi-cua-thien-su-thch-nhat-hanh/

.

Thích Nhất Hạnh (1926-2022): Người đánh khẽ tiếng chuông tỉnh thức cho thế giới

Nguyễn Hữu Liêm

22 Tháng Một, 2022

http://vanviet.info/van/thch-nhat-hanh-1926-2022-nguoi-dnh-khe-tieng-chung-tinh-thuc-cho-the-gioi/





No comments:

Post a Comment

View My Stats