Những
khoản nợ ngầm với Trung Hoa cho thấy nguy hiểm chính trị của Việt Nam
Zachary
Abuza và Phượng Vũ - The Diplomat
DCVOnline dịch thuật
POSTED ON OCTOBER
11, 2021
Mặc dù gánh nợ của Trung Hoa ở Việt Nam thấp
so với một số nước láng giềng, nó vẫn là một nỗi lo đối với Đảng Cộng sản ở Hà
Nội.
Cửa biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa ở Lào
Cai. Ảnh: AFP
Việt Nam nổi tiếng né tránh Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường (BRI) của Trung Hoa, nhưng lại
là nước nhận hơn 16,3 tỷ USD tài trợ cho những dự án của Trung Hoa từ năm
2000-2017. Một phúc trình mới về những chương trình viện trợ kinh tế của Trung
Hoa đã làm sáng tỏ vấn đề và cho thấy rằng Việt Nam đang tăng gánh nợ với Trung
Hoa vượt xa những gì người ta thường nghĩ; tạo ra rủi ro về mặt chính trị và ảnh
hưởng đến những chính sách Việt Nam có thể có đối với nước láng giềng phía Bắc,
thường bắt nạt và đe dọa.
385 tỷ đô la nợ ngầm
Phúc trình gần đây của AidData về
danh mục viện trợ và cho vay ở nước ngoài của Trung Hoa cho thấy tổng cộng 385
tỷ đô la những khoản nợ không được báo cáo và chưa được báo cáo. Bộ dữ liệu xét
qua 13.000 dự án do Trung Hoa tài trợ trị giá 843 tỷ USD ở 165 quốc gia, từ năm
2000-2017. Mặc dù dữ liệu gồm nhiều dự án không thuộc BRI, nhưng công bằng mà
nói thì những khoản cho vay và viện trợ không hoàn lại của Trung Hoa đã tăng
lên đáng kể sau khi BRI bắt đầu vào năm 2013. Báo cáo cho thấy rằng chính phủ
trung bình “đang báo cáo thiếu về những trách nhiệm trả nợ thực tế và nợ có thể
phải trả đối với Trung Hoa bằng một số tiền tương đương với 5,8 phần trăm GDP của
nó.”
Làm sao mà gánh nặng nợ lại lớn như vậy? Điều
mà AidData nhận thấy là Trung Hoa cho đi rất ít viện trợ và ngay cả việc cho
vay cũng không phải giữa những quốc gia có chủ quyền. Thay vào đó, “gần 70% khoản
cho vay ở nước ngoài của Trung Hoa hiện nay nhắm đến những công ty nhà nước,
ngân hàng quốc doanh, xe chuyên dụng, công ty liên doanh và những tổ chức khu vực
tư nhân ở những nước nhận đầu tư” chứ không phải là những người đi vay có chủ
quyền: tức là những cơ quan chính phủ trung ương.
Vì sao vấn đề này lại quan trọng? Thứ nhất, hoạt
động cho vay của Trung Hoa không rẻ. Thật vậy, khoản vay trung bình của Trung
Hoa có lãi suất trên 4%, gần gấp 4 lần lãi suất cho vay của Nhật Bản hoặc Liên
minh châu Âu.
Thứ hai, Trung Hoa yêu cầu mức độ thế chấp
cao, tài sản hoặc tiền trong trương mục ký quỹ mà Trung Hoa kiểm soát. Do đó,
chúng ta đã thấy những giao dịch hoán đổi nợ lấy vốn cổ phần ở Sri Lanka và
Lào. Trong khi ngay cả Trung Hoa có thể không muốn chống lại một chính phủ có
chủ quyền nếu họ không thể trả nợ, thì Bắc Kinh không đắn đo gì về việc những
doanh nghiệp nhà nước của họ chiếm giữ tài sản của những đối tác ở nước ngoài.
Ví dụ, một doanh nghiệp nhà nước của Trung Hoa đã tiếp quản một phần lưới
điện của Lào khi một doanh nghiệp nhà nước của Lào không thể trả
nợ cho việc xây dựng đập thủy điện.
Và số nợ Trung Hoa là rất lớn: 42 nước đang
phát triển, gồm 4 nước ở Đông Nam Á (Lào, Brunei, Campuchia và Myanmar), có “mức
nợ công đối với Trung Hoa vượt quá 10% GDP”.
Việt Nam ở đâu?
Tình hình đặc biệt nghiêm trọng đối với Việt
Nam, vì nước này là nước nhận những khoản cho vay Dòng Chính thức Khác
(Official Other Flows, OOF) lớn thứ tám của Trung Hoa từ năm 2000-2017. Tổng cộng,
Việt Nam đã vay 16,35 tỷ USD, chỉ đứng sau Indonesia ở Đông Nam Á. Việt Nam là
nước nhận ODA ưu đãi lớn thứ 20 của Trung Hoa, trị giá 1,37 tỷ USD. Mặc dù vậy,
Việt Nam từ lâu đã nghi ngờ về BRI và cho đến nay chưa có dự án cơ sở hạ tầng mới
nào ở Việt Nam được chính thức dán nhãn là một phần của BRI trong phạm vi công
cộng.
Tăng trưởng kinh tế gần đây của Việt Nam đã rất
xuất sắc, với mức
tăng trưởng hàng quý từ năm 2000 đến giữa năm 2021, khi COVID-19 đóng cửa Thành
phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế của cả nước. Khi Việt Nam chuyển
sang tiếp nhận những cơ xưởng sản xuất khi những công ty và quốc gia khác tìm
nhữngh tách khỏi Trung Hoa, cơ sở hạ tầng là trở ngại lớn nhất của Việt Nam.
Theo Trung
tâm Cơ sở hạ tầng Toàn cầu, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt
Nam ước khoảng 605 tỷ USD từ năm 2016 đến năm 2040. Khi Việt Nam trở nên giàu
có hơn, viện trợ phát triển và cho vay ưu đãi song phương và đa phương đã tăng
cao nhất. Nhu cầu rất lớn nên Việt Nam phải huy động những nguồn tài trợ nước
ngoài, trong lúc có nhiều những dự án hợp tác công tư, xây dựng — chuyển giao
ngày càng khó khăn và ngân sách nhà nước hạn hẹp.
BRI có thể giúp Việt Nam giải tỏa cơn khát vốn,
và Hà Nội đã công khai tán thành. Vào tháng 11 năm 2015, hai bên đã đồng ý mở rộng
thương mại song phương, đặc biệt là thương mại biên giới, vì miền Bắc Việt Nam
trở thành một phần trong chuỗi cung ứng của Trung Hoa. Hai bên cũng đã đồng ý
thúc đẩy, mặc dù không liên kết, BRI của Trung Hoa và chiến lược phát triển Hai
Hành lang và Một Vành đai Kinh tế năm 2004 của Việt Nam. Vào tháng 11/2017, Việt
Nam và Trung Hoa đã ký MOU (nghị
định thư) về việc thực hiện chung BRI và Hai Hành lang và Một Vành đai Kinh tế
của Trung Hoa, bên cạnh việc thành lập nhóm công tác hợp tác cơ sở hạ tầng và
nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ. Lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đã tham
dự cả hai diễn đàn BRI vào năm 2017 và 2019.
Nhưng bên trong, ban lãnh đạo Việt Nam và những
cố vấn chính sách đã bày tỏ sự nghi ngờ nghiêm trọng. Biên bản ghi nhớ 2017 hầu
như không được thực hiện vì một số lý do.
Đầu tiên, như đã đề cập ở trên,
những khoản vay của Trung Hoa không rẻ. Ví dụ, những khoản vay ODA của Trung
Hoa có lãi suất rất cao, trung bình 3% hàng năm. Con số này cao hơn đáng kể so
với Nhật Bản (0,4-1,2%), Nam Hàn (0-2%) hoặc Ấn Độ (1,75%).
Những khoản cho vay tín dụng ưu đãi của Trung
Hoa tương tự như tín dụng xuất cảng, có điều kiện là nước nhận đầu tư phải tuân
theo một số yêu cầu liên quan đến dự án đối với việc dùng những nhà thầu Trung
Hoa, cùng với những điều khoản vay kém hấp dẫn hơn so với những nước viện trợ
khác. Trong nhiều trường hợp, điều này làm cho chi phí thực tế của khoản nợ cao
hơn nhiều so với giá trị thực trong trường hợp diễn ra theo tiến trình đấu thầu
và cạnh tranh tự do. Hơn nữa, những khoản nợ với Trung Hoa phải chịu chi phí
cam kết 0,5% và chi phí quản lý 0,5%. Thời gian cho vay và thời gian ân hạn ngắn
hơn so với những nước cho vay khác, 15 so với 5 năm.
Thứ hai, những khoản vay của
Trung Hoa đi kèm với nhiều điều kiện bổ túc, gồm thiết kế và quản lý dự án của
những doanh nghiệp nhà nướcTrung Hoa, mua kỹ thuật của Trung Hoa và dùng công
nhân Trung Hoa, nhiều người trong số những công nhân đó không bao giờ trở
lại Trung Hoa, gây ra sự bất bình ở địa phương.
Thứ ba, những công ty Trung Hoa
có thành tích bất hảo về sự chậm trễ, thiếu minh bạch, vượt chi phí, hủy hoại
môi trường, phẩm chất xây dựng kém và chi phí bảo trì cao. Đường sắt Cát
Linh-Hà Đông ở Hà Nội, dự án trị giá 866 triệu đô la, là ví dụ mới nhất về một
dự án cơ sở hạ tầng của Trung Hoa đã trở nên tồi tệ, và là nguồn gốc của sự phản đối
đáng kể của công chúng.
https://vcdn-kinhdoanh.vnecdn.net/2020/06/01/duong-sat-Cat-Linh-Ha-Dong-9857-1590995666.jpg
Đường sắt Cát
Linh-Hà Đông phải lui việc chạy thử. Ảnh: Hoàng An
Thật vậy, trong báo cáo của AidData, Việt Nam
là quốc gia chậm thứ năm trong việc hoàn thành những dự án do Trung Hoa viện trợ,
với trung bình 1.783 ngày (4,9 năm) cho mỗi dự án. Trong số 10 quốc gia có những
dự án cơ sở hạ tầng BRI được công khai liên quan đến “những vụ bê bối, tranh
cãi hoặc bị cáo buộc vi phạm”, Việt Nam đứng thứ 4, với 5 dự án trị giá 2,75 tỷ
USD.
Ý chí chính trị
Như vậy tại sao Hà Nội vẫn tiếp tục đi vay
nợ của Trung Hoa? Một phần, đó là một tính toán chính trị, hy vọng rằng
việc ràng buộc chặt chẽ hơn với Trung Hoa sẽ hạn chế được sự uy hiếp và gây hấn
của Bắc Kinh.
Hà Nội không công khai bày tỏ sự lo lắng về việc
mắc vào “bẫy nợ” với Trung Hoa. Khối lượng nợ của nó vẫn có thể kiểm soát được
và nền kinh tế đang phát triển thậm chí để giải quyết những khoản nợ. Không giống
như Lào, Việt Nam có rất nhiều nguồn vốn.
Nhưng những lo ngại của Việt Nam được chứng
minh rõ ràng. Hà Nội đã hạn chế những khoản nợ quốc gia đối với Trung Hoa. Nó
đã khuyến khích những cam kết không có chủ quyền, qua những ngân hàng thương mại,
doanh nghiệp nhà nước và ngay cả những công ty tư nhân, để giảm rủi ro chính trị
cho Việt Nam. Theo AidData, nợ chính phủ và những khoản vay OOF cho Trung Hoa
chiếm 6% GDP.
Mặc dù Indonesia, về mặt tuyệt đối, là nước nhận
nhiều khoản nợ của Trung Hoa nhất ở Đông Nam Á, tình hình của Việt Nam có vẻ
đáng lo ngại hơn về mặt tương đối. Mặc dù ở mức thấp, nhưng tỷ trọng nợ chính
phủ và OOF của Việt Nam chỉ thấp hơn Lào, Campuchia, Brunei và Myanmar.
Chừng nào Việt Nam có thể trả được chi phí cho
những khoản nợ của Trung Hoa, ngay cả với lãi suất rất cao, người siết tài sản
sẽ không đến gõ cửa. Nhưng nếu và khi lâm vào hoàn cảnh đó, giới lãnh đạo ở Hà
Nội nên biết rằng sẽ có phản ứng dữ dội từ những công dân theo chủ nghĩa dân tộc,
những người luôn nghi ngờ hảo ý của Trung Hoa.
Đó là rủi ro chính trị thực sự của Hà Nội.
*
Tác Giả (do The Diplomat
mời)
https://pbs.twimg.com/profile_images/525963755671130112/-Oyy6jLq.jpeg
Zachary
Abuza là giáo sư tại Đại học Chiến tranh Quốc
gia ở Washington, DC. Những quan điểm được trình bày ở đây là của riêng ông, và
không phản ảnh quan điểm của Trường Đại học Chiến tranh Quốc gia hoặc Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ.
*
https://pbs.twimg.com/profile_images/1288709242875043840/K52tpHy8_400x400.jpg
Phuong Vu là một ứng viên Tiến
sĩ khoa Chính trị tại Đại học Otago, New Zealand.
© 2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể
lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Vietnam’s Hidden Debts to China Expose its
Political Risks | Zachary Abuza and Phuong Vu | The
Diplomat | October 08, 2021.
No comments:
Post a Comment