Bài
học từ hoạch định chính sách biển của một số nước trên thế giới
Nguyễn
Thanh Minh
Biển và đại dương có tầm
quan trọng đặc biệt về mặt kinh tế – chính trị xã hội và là định hướng phát triển
chủ yếu đối với các nước trên thế giới. Trước sự dịch chuyển địa chiến lược từ
không gian đất liền ra không gian biển, nhiều quốc gia trong thời gian gần đây
tiến hành hoạch định chiến lược biển của mình. Khu vực biển ở Đông Á – Thái
Bình Dương trở thành một trong những nơi hội tụ lợi ích then chốt của các nước
bởi tiềm năng kinh tế, an ninh chiến lược cũng như vị thế địa – chính trị đang
nổi lên hiện nay.
Học thuyết biển mới của Nga
Nhằm khôi phục và duy trì
vị thế cường quốc biển của Nga trên phạm vi toàn thế giới, Nga đã công bố học thuyết
biển mới vào năm 2015. Theo đó, nội dung của học thuyết bao gồm: Phát triển vận
tải biển, khai thác và bảo vệ tài nguyên đại dương, tiếp tục nghiên cứu khoa học
biển, tiếp tục duy trì hoạt động của lực lượng hải quân. Các nội dung này thể
hiện chủ trương khôi phục và duy trì vị thế cường quốc biển của Nga trên phạm
vi thế giới.
Học thuyết biển mới của
Nga xác định các hướng chiến lược trọng tâm mà ở đó Nga sẽ củng cố sức mạnh. Một
là, khu vực Biển Đen, nơi Nga sẽ phát triển lực lượng Hạm đội Biển Đen,
ngăn chặn sự mở rộng của NATO áp sát biên giới Nga. Hai là, khu
vực Bắc Cực với tiềm năng dồi dào, buộc Nga phải có những điều chỉnh về chiến
lược và tập trung lực lượng để khai thác phục vụ lợi ích quốc gia Nga. Ba
là, khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương, khu vực hội tụ các đại dương lớn và quan trọng của thế giới, bảo đảm
lợi ích, mục tiêu phát triển và an ninh của Nga.
Theo đánh giá của các nhà
phân tích, việc Nga công bố chiến lược biển mới ngay sau khi Mỹ thông qua một
loạt văn kiện chiến lược quan trọng về hàng hải, như chiến lược sức mạnh trên
biển, chiến lược an ninh hàng hải, chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á – Thái
Bình Dương với chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do, cho thấy Nga bắt đầu tham gia một cuộc
cạnh tranh chiến lược rộng lớn với Mỹ trong việc mở rộng tầm ảnh hưởng và duy
trì vị thế cường quốc biển hàng đầu thế giới.
Chiến lược biển của Mỹ
Khu vực biển Đông Á –
Thái Bình Dương đang trở thành một trong những trọng tâm hàng đầu trong chiến
lược toàn cầu, hội tụ các lợi ích sống còn về kinh tế và chiến lược của Mỹ, bởi:
(i) Vùng biển này nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á và
Trung Đông – Đông Á. (ii) Đây là nơi vận chuyển lượng vận tải thương mại lớn của
thế giới chiếm 45%, riêng khu vực Biển Đông với lượng hàng hóa trị giá 5.000 tỷ
USD được lưu thông hằng năm thì 1/5 là hàng hóa của Mỹ. (iii) Đây là nơi mà Mỹ
có các mục tiêu an ninh quan trọng. Do vậy, lợi ích của Mỹ là bảo đảm quyền tự
do hàng hải, hàng không cả khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông – những bản lề
liên kết Đông Bắc Á và Đông Nam Á, rộng hơn là cả giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Đây cũng là những địa bàn trực tiếp tác động đến chủ trương chuyển trọng
tâm chiến lược sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Tiếp cận các vùng
biển này là một bảo đảm cho khả năng triển khai sức mạnh quân sự của Mỹ trên
toàn thế giới. Chính vì vậy, Mỹ đã xây dựng chiến lược biển nhằm tạo ảnh hưởng
và quyền lực của mình trên các vùng biển này.
Mặc dù không phải là quốc
gia ven bờ Biển Đông nhưng do tầm quan trọng của Biển Đông nên Mỹ vẫn coi vùng
này là con đường thông thương chiến lược chính của mình, lợi ích của Mỹ ở Biển
Đông không kém phần quan trọng. Biển Đông được coi là mắt xích trọng
yếu trong hệ thống quân sự ven biển của Mỹ ở châu Á. Chính sách và mục
tiêu chiến lược của Mỹ đối với tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông được thể hiện
qua lập trường 4 điểm: (i) Mỹ thúc giục giải pháp tăng cường hòa bình,
thịnh vượng và an ninh trong khu vực. (ii) Mỹ không đồng tình với việc
đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để khẳng định yêu sách về chủ quyền của bất kỳ nhà
nước nào ở Biển Đông và coi đây là một vấn đề nghiêm trọng. (iii) Mỹ sẵn sàng
giúp đỡ bằng giải pháp hòa bình đối với các yêu sách đó nếu được các bên yêu cầu.
(iv) Mỹ có lợi ích chiến lược trong việc duy trì sự an toàn và tự do đối với
các tuyến đường giao thông trên Biển Đông và xem đó là vấn đề cơ bản để không đồng
tình về bất kỳ yêu sách chủ quyền biển của quốc gia nào không phù hợp với Công
ước Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế – UNCLOS năm 1982. Theo đó, Mỹ xác định
mục tiêu chiến lược ở Biển Đông là: Một là, không thừa nhận cơ sở
pháp lý về các đòi hỏi chủ quyền đối với Biển Đông của bất kỳ nước nào, bởi sự
thừa nhận này sẽ đẩy Mỹ vào thế bất lợi. Hai là, bảo đảm việc tự do
đi lại trên các tuyến đường hàng hải quốc tế, ngăn cản việc giải quyết tranh chấp
chủ quyền ở Biển Đông bằng vũ lực. Điều này giúp Mỹ có tiếng nói và vị trí nhất
định trong khu vực. Ba là, Biển Đông là lá bàicần thiết
để kiềm chế tham vọng độc chiếm khu vực này của Trung Quốc.
Chiến lược an ninh biển mới của
Nhật Bản
Là quốc gia hải đảo, với
đường bờ biển dài và hàng nghìn hòn đảo, phụ thuộc nhiều vào biển để phát triển
kinh tế, Nhật Bản rất chú trọng phát triển chính sách biển. Trong các thập niên
qua, Nhật Bản trở thành cường quốc số một trong khu vực về phát triển kinh tế
biển bởi quốc gia này đã xây dựng và thực thi chiến lược kinh tế biển nhằm khai
thác và quản lý các nguồn lực từ biển. Chính sách về biển của Nhật Bản chủ yếu
tập trung phát triển tài nguyên biển, kết hợp hài hoà giữa khai thác tài nguyên
và bảo vệ môi trường biển; bảo đảm an toàn và an ninh trên biển; tăng cường
nghiên cứu khoa học về biển, thúc đầy các hoạt động trong nghiên cứu và phát
triển liên quan đến biển, tăng cường thăm dò đại dương ở những vùng có đủ dữ liệu;
phát triển hợp lý các ngành kinh tế biển. Trong bối cảnh các nước trên thế giới
đều chạy đua, hướng ra biển, lấy biển làm điều kiện sống tất yếu cho sự phát
triển của quốc gia, Nhật Bản ngày càng chú trọng tăng cường đầu tư phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho kinh tế biển.
Tuy nhiên, thời gian qua,
bối cảnh tình hình khu vực và môi trường chiến lược của Nhật Bản đã có nhiều
thay đổi sâu sắc, tác động đến an ninh đất nước. Trong bối cảnh đó, Chính phủ
Nhật Bản đã phê chuẩn chính sách mới về đại dương vào tháng 5/2018. Chính sách
mới về đại dương của Nhật Bản nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự hợp tác giữa
các lực lượng liên quan để ứng phó trước những thách thức mới trên biển. Để bảo
đảm an toàn cho các tuyến hải lộ, chính sách mới này cũng quy định Chính phủ sẽ
thúc đẩy “chiến lược Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương mở và tự do” để duy trì và củng cố trật tự trong khu
vực.
Mục tiêu tiến tới cường quốc
biển của Trung Quốc
Trung Quốc đang mở rộng không
gian chiến lược hướng biển để duy trì sự phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh
quốc gia. Nghiên cứu chiến lược biển được Trung Quốc đặc biệt quan tâm, nhất là
chiến lược khai thác phát triển Biển Đông. Trung Quốc coi khống chế được Biển
Đông tức là khống chế được cả vùng Đông Nam Á và con đường giao lưu huyết mạch
từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương. Giành được vị thế ở Biển Đông sẽ giúp nước
này giành được thế chủ động để vươn ra các vùng biển khác, đồng thời giúp Trung
Quốc tăng cường và mở rộng tầm ảnh hưởng trên nhiều lĩnh vực đối với các nước
trong khu vực.
Tháng 4/2014, Viện Nghiên
cứu chiến lược phát triển biển thuộc Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc công bố Báo cáo
phát triển chiến lược biển Trung Quốc năm 2014. So với các năm trước, Báo
cáo này đã tăng thêm phần Xây dựng cường quốc biển, có những ý mới,
có đột phá, trình bày khá chi tiết về mục tiêu chiến lược xây dựng cường quốc
biển, cung cấp tư liệu chi tiết cho công chúng tìm hiểu tình hình phát triển
các chương mục của Báo cáo được sắp xếp chủ yếu dựa vào sự bố trí chiến lược
xây dựng cường quốc biển được đề cập trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XVIII Đảng
Cộng sản Trung Quốc và các yêu cầu nêu ra trong Báo cáo công tác năm 2013 của
chính phủ, kết hợp sự phát triển chính sách về biển, các sự kiện lớn về biển xảy
ra trong năm 2013.
Các nhà phân tích Trung
Quốc cho rằng, chiến lược biển phải bảo đảm ba yếu tố: (i) Các lợi ích chung về
biển của Trung Quốc; (ii) Các lợi ích an
ninh quốc gia của Trung Quốc; (iii) Xây dựng một xã hội hòa hợp về biển, trong
đó công nhận sự cạnh tranh toàn cầu trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên biển
đang tăng lên.
Các nhiệm vụ chính về biển
của Trung Quốc trong tương lai gồm: bảo vệ nguồn lực về biển của Trung Quốc đối
với các vùng nước liên quan, phát triển kinh tế biển, tăng cường việc sử dụng
biển và quản lý các đảo, duy trì môi trường biển; phát triển các ngành công
nghiệp biển và khoa học về biển, nâng cao sự đóng góp của Trung Quốc vào hải
dương học toàn cầu.
Trong thời gian gần đây,
nhất là từ sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 11/2012,
Trung Quốc đã đề ra chiến lược xây dựng cường quốc biển, chính thức đưa vấn đề
phát triển biển trở thành chiến lược phát triển quốc gia, nhấn mạnh việc xây dựng
cường quốc biển là sự lựa chọn tất yếu để bảo vệ lợi ích quốc gia và thực hiện
phục hưng dân tộc Trung Hoa. Phương hướng phát triển này được định vị bằng khái
niệm Chiến lược hải dương xanh với hàm ý lợi ích quốc gia của
Trung Quốc đã mở rộng ra biển và trở thành cường quốc biển là một bước trên con
đường đạt tới địa vị cường quốc thế giới của Trung Quốc.
Xây dựng cường quốc biển mang đặc sắc Trung Quốc là phần mới tăng thêm trong Báo cáo năm
2014. Nội dung xây dựng cường quốc biển gồm tư duy lý luận xây dựng cường quốc
biển và biện pháp xây dựng cường quốc biển đặc sắc Trung Quốc. Chỉ có xây dựng
được cường quốc biển thì mới có khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia,
các quyền lợi trên biển và an ninh nhà nước, mới có bảo đảm cho sự phát triển
kinh tế và xã hội. Nếu như trước đây, Chiến lược biển của Trung Quốc là ưu
tiên giữ ổn định, chủ yếu là gác lại tranh chấp thì chiến lược biển từ
sau Đại hội XVIII của Trung Quốc thay đổi theo hướng chủ động, tích cực hơn,
biểu thị rõ ràng thái độ kiên quyết không từ bỏ cái mà họ coi là quyền lợi chính
đáng. Trung Quốc triển khai chiến lược 3 chữ Mhay Chiến
lược một trục hai cánh, chiến lược hợp tác tiểu vùng Trung Quốc – ASEAN gồm
trục Hành lang kinh tế Nam Ninh – Singapore, cánh một là hợp tác tiểu vùng
sông Mêcông mở rộng, cánh hai là hợp tác tiểu vùng vịnh Bắc Bộ mở rộng. Trong
khuôn khổ Hợp tác tiểu vùng vịnh Bắc Bộ mở rộng, Trung Quốc xây dựng Khu kinh tế
vịnh Bắc Bộ và Quảng Tây như một hạt nhân và nền tảng.
Một số vấn đề rút ra
Thứ
nhất, các nước đều coi trọng vị trí, vai trò hàng đầu của biển trong
chiến lược quốc gia. Nga khẳng định việc triển khai học thuyết biển sẽ
bảo đảm thực hiện, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, nâng cao duy trì uy tín và
vị thế cường quốc của Nga. Mỹ khẳng định sức mạnh biển đã và sẽ tiếp tục
là nền tảng quan trọng cho sức mạnh quốc gia, sự thịnh vượng và uy tín quốc tế
của Mỹ. Trung Quốc nhấn mạnh, xây dựng cường quốc biển có ý nghĩa trọng đại
đối với việc thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh, bảo vệ chủ quyền, an ninh
và lợi ích phát triển, góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội toàn diện
và giàu có, thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Trước khi
trở thành cường quốc của thế giới, Trung Quốc phải trở thành cường quốc biển,
đây là mục tiêu mà giới lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi, thực hiện trong thời
gian qua.
Thứ
hai, quan điểm, tư duy về biển và phát triển kinh tế biển ở các nước
trên đã hình thành từ rất sớm và được thể hiện trong chính sách quốc gia. Mỹ từ
lâu đã tự coi mình là quốc gia Thái Bình Dương, điều chỉnh chiến lược xoay
trục sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, triển khai thực hiện chiến lược
Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trong quá khứ, Trung Quốc từ
một nước quay lưng ra biển đã tiến đến tư duy về biển, đại
dương với giấc mộng cường quốc biển cùng song hành với đó là cường quốc lục địa.
Xây dựng cường quốc biển đã trở thành quyết sách lớn và chiến lược của Đảng Cộng
sản Trung Quốc với mục tiêu dựa vào biển làm cho đất nước mạnh lên.
Nhật Bản là quốc gia hải đảo, sớm có nhận thức và tầm nhìn về biển đảo. Ngay từ
thời Minh Trị, người Nhật Bản đã tìm cách vượt biển để học hỏi những đối thủ đã
từng là mối đe dọa đối với biển, đảo của mình. Sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập kế hoạch phát triển tổng thể với các vùng
công nghiệp trọng điểm tập trung ở các vùng bờ biển.
Thứ
ba, dựa vào lợi thế biển, các nước này đã thực thi chiến lược kinh tế,
an ninh từ biển, kết hợp giữa phát triển kinh tế biển với quốc phòng – an ninh,
tăng cường sức mạnh quân sự. Hai nhân tố kinh tế – quốc phòng đan xen, hỗ trợ
nhau. Các quốc gia đều chú trọng khả năng lưỡng dụng: tạo sức mạnh tổng hợp,
linh hoạt của nhân tố kinh tế biển trong triệt hạ sức mạnh quân sự đối phương.
Khi có chiến tranh hoặc xung đột trên biển, các đặc khu kinh tế ven biển, kết cấu
hạ tầng kỹ thuật trên biển, như cảng biển, các tuyến hàng hải, cơ sở hậu cần kỹ
thuật, hệ thống thông tin liên lạc trên biển, đường băng dân sự trên các đảo kết
hợp với hạ tầng trên các đảo, quần đảo trở thành hệ thống kết nối liên hoàn hỗ
trợ tác chiến. Học thuyết biển của Nga nhấn mạnh khả năng chuyển đổi công năng
của hạ tầng kinh tế biển sang phục vụ mục đích quân sự để ngăn cản các mối đe dọa.
Mỹ coi lực lượng tàu vận tải thời chiến là bộ phận cấu thành của lực lượng vũ
trang. Trung Quốc áp dụng tiêu chuẩn tàu quân sự cho tàu dân sự, có thể giúp
nhanh chóng chuyển năng lực tiềm tàng của đội tàu vận tải dân sự thành sức mạnh
quân sự thời chiến.
Để bảo đảm sự kết hợp
kinh tế biển với quốc phòng – an ninh, các quốc gia này đều chú trọng xây dựng
lực lượng hải quân mạnh, hiện đại, có khả năng ứng chiến nhanh, bảo vệ lợi ích
chiến lược trên khắp các vùng biển. Như vậy, để thích nghi, đối phó với sự thay
đổi lớn trên thế giới, bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia, các nước này đều
có sự điều chỉnh chiến lược biển, đặt chiến lược biển vào vị trí trung tâm của
chiến lược quốc gia. Là quốc gia biển trong khu vực Biển Đông, Việt Nam với vị
thế đặc thù, là ban công hướng ra biển Thái Bình Dương, có nhiều
thuận lợi cho hoạt động giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế nhưng cũng là vị
trí xung yếu về mặt an ninh, quốc phòng; tạo cho nước ta một vị thế địa – chính
trị và địa – kinh tế then chốt trong chiến lược phát triển, mở rộng ảnh hưởng
các nước lớn trên thế giới, từ xa xưa cho đến nay. Từ thế đứng tự nhiên – lịch
sử, cùng với vị thế của đất nước hiện nay trong khu vực và trên thế giới, Việt
Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách về biển, sách nhằm khai thác tối đa tiềm
năng và lợi thế trên biển, vùng ven biển và hải đảo, bảo đảm quốc phòng – an
ninh, bảo vệ môi trường, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia, góp phần đẩy nhanh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta trở thành quốc
gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an
toàn như Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII đã đề ra./.
---------------
Trung tá,
TS. Nguyễn Thanh Minh hiện công tác tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam.
No comments:
Post a Comment