Thursday, 2 August 2018

ĐẶC KHU : RỘNG CỬA CHO LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI (Nguyễn Quốc Tấn Trung - Luật Khoa)





Posted on 02/08/2018

Việc làm là một lời hứa kinh điển nhất cho mọi chính sách phát triển kinh tế, trong đó có cả đặc khu.

Nói một cách bao quát hơn, và đúng với tinh thần phát triển kinh tế nhất, tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc sản sinh công ăn việc làm, từ đó phát triển các chương trình an sinh xã hội, tạo nền tảng ổn định xã hội là đích đến của mọi chính sách nhà nước, bất kể đó có phải là chính sách kinh tế hay không.

Với tư cách là một mục tiêu chủ đạo cho mọi chính sách công như vậy, một dự án thỏa mãn được lời hứa về lao động đủ khiến những chuyên gia kinh tế và pháp luật khó tính nhất cũng phải chấp nhận lùi bước nhượng bộ. Vì vậy, không có gì khó hiểu khi các nhóm ủng hộ Luật Đặc khu luôn dùng việc làm như một lợi ích đương nhiên mà đạo luật này sẽ mang lại.

Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu thật kỹ các chế định lao động bên trong dự thảo Luật Đặc khu để giải quyết những khúc mắc liên quan.

Miễn giấy phép lao động, miễn thị thực có thời hạn cho lao động nước ngoài

Thông thường, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc tuyển dụng lao động nước ngoài cần thoả mãn điều kiện là nhà tuyển dụng không tìm được người bản xứ cho vị trí họ cần tuyển. Nhà tuyển dụng sẽ cần phải chứng minh điều này trong hồ sơ xin giấy phép lao động cho người nước ngoài.

Tuy vậy, Luật Đặc khu tạo ra những điều kiện cực kỳ dễ dàng và thông thoáng cho lao động nước ngoài. Thoáng đến mức cả lao động kỹ thuật và chuyên gia nước ngoài có thể làm việc ở các đặc khu tới 3 tháng hoặc 6 tháng/năm mà không cần xin giấy phép lao động.

Điều này được thể hiện rõ trong Mục 4 của dự thảo Luật Đặc khu về lao động, tiền lương và an sinh xã hội. Theo đó, người lao động nước ngoài là chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành có thời gian làm việc dưới 60 ngày và thời gian cộng dồn không quá 180 ngày/năm tại đặc khu không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Quy định này gấp đôi quyền lợi hiện tại của người lao động nước ngoài có cùng chức danh trong Nghị định 11/2016 về lao động nước ngoài tại Việt Nam.

Trong khi đó, người lao động nước ngoài là lao động kỹ thuật cũng có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày/năm tại đặc khu cũng không thuộc diện cấp giấy phép lao động.

Ngoài ra, người sử dụng lao động nếu muốn sử dụng lao động nước ngoài nằm trong các trường hợp trên không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài, không phải làm thủ tục xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động.

Theo quan điểm của người viết, với những quy định thả lỏng như thế này, kèm với việc Nghị định 11/2016 đã xóa bỏ giới hạn sử dụng lao động nước ngoài (mà trước đây là 3%), khả năng nguồn nhân lực của doanh nghiệp chỉ hoàn toàn là người nước ngoài là rất cao.

Nhưng không dừng lại ở đó, ngoại trừ Bắc Vân Phong, cả Phú Quốc và Vân Đồn đều có những ưu đãi đặc biệt khác cho người lao động nước ngoài và khá dễ dãi trong quản lý nhập cảnh của người nước ngoài, vẽ nên một bức tranh ảm đạm cho nguồn nhân lực Việt Nam.

Tại Vân Đồn, người nước ngoài hoạt động trong ngành “công nghiệp văn hóa” (dù Vân Đồn được định hướng phát triển kỹ thuật công nghệ cao) được miễn giấy phép lao động và thị thực (visa) lên đến 12 tháng. Ở Phú Quốc, người hành nghề khám chữa bệnh nước ngoài nhận được ưu đãi tương tự. Nhưng không chỉ vậy, người nước ngoài của các quốc gia “có chung đường biên giới” cũng sẽ được miễn thị thực trong thời gian nhất định.

Ngược hoàn toàn so với đặc khu của Trung Quốc

Những người ủng hộ Luật Đặc khu thường viện dẫn các đặc khu của Trung Quốc như một hình mẫu. Tuy nhiên, chính sách lao động của đặc khu Trung Quốc trái ngược hoàn toàn với Luật Đặc khu Việt Nam.

Hệ thống pháp luật kiểm soát đặc khu của Trung Quốc không hề giấu giếm rằng họ sẽ không chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào về lực lượng lao động tại các doanh nghiệp hưởng ưu đãi tại đặc khu.

Trong Chương III của Quy định Lao động, mà cụ thể là tại Điều 19, giới làm luật Trung Quốc ghi nhận rõ nội dung như sau:

“Nhà tuyển dụng lao động tự thân có quyền tuyển dụng các cư dân đang sinh sống tại đặc khu và các cư dân thuộc những vùng đô thị khác dưới sự quản lý của chính quyền đặc khu.
Nếu một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc một doanh nghiệp được đầu tư, thành lập bởi cá nhân, tổ chức Hong Kong, Macao và Đài Loan không thể tuyển đủ nhân viên từ bên trong lãnh thổ đặc khu, các doanh nghiệp này được phép tuyển dụng cư dân từ các vùng khác của Trung Quốc. Cơ quan Lao động thuộc chính quyền đặc khu và các sở lao động địa phương có liên quan có trách nhiệm tổ chức, hợp tác và cung cấp các dịch vụ công cần thiết cho việc tuyển dụng nói trên…”

Như vậy, rõ ràng và thẳng thắn, các công ty tham gia hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh ở đặc khu tại Trung Quốc trong những thập niên 80 và 90 chỉ có hai nguồn tuyển dụng: cư dân Trung Quốc bên trong đặc khu và cư dân Trung Quốc bên ngoài đặc khu. Nói cách khác, họ buộc phải tuyển 100% nhân viên là người bản xứ. Một quy định có phần cực đoan nhưng người viết cho là phù hợp trong tình thế của các quốc gia đang phát triển.

Nếu chính phủ chấp nhận bỏ tất cả những nguồn lợi về thuế, về hạ tầng, thứ chúng ta cần nhận lại ít nhất là việc làm cho người dân, an sinh xã hội đi kèm cũng như kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm sản xuất từ các quốc gia phát triển hơn. Nguồn nhân lực này sẽ là một tài sản vô giá cho cuộc bùng nổ khởi nghiệp tại Trung Quốc mươi năm sau đó.

***
Nếu nhìn vào thực tế đáng lo ngại của các đặc khu tại Campuchia hay Lào, đối chiếu với các quy định pháp luật của dự thảo Luật Đặc khu, có thể khẳng định rằng nỗi lo về khả năng tạo công ăn việc làm cho người Việt Nam của các đặc khu không hề thừa. Lại một lần, những lợi ích mà chúng ta được hứa hẹn, dường như không thể hiện đúng trong các quy định của Luật Đặc khu.


--------------------------------------------

Posted on 01/08/2018

Theo Dân trí đưa tin, dự kiến chương trình phiên họp tháng 8/2018 cho thấy Ủy ban Thường vụ Quốc hội có buổi thảo luận về một số vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt (đặc khu).

Với động thái này, Luật Đặc khu có vẻ đang trong quá trình được vận động và tuyên truyền để nhất quyết thông qua, thay vì thật sự tiếp nhận ý kiến hay phản biện từ chuyên gia và người dân. Theo đó, các tài liệu được công bố để phục vụ cho việc tiếp xúc cử tri cũng thể hiện nhu cầu “bảo kê” tận răng dự thảo luật chứ không tạo ra một môi trường cởi mở cho những luồng ý kiến trái chiều.

Để tổng hợp ngắn gọn, nhóm tài liệu này đưa ra một số khẳng định về những điều tốt đẹp của đặc khu như:

·         “Xu thế phát triển của các đặc khu trên thế giới là hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, đơn giản thủ tục hành chính, giải quyết nhanh gọn yêu cầu của nhà đầu tư, người dân theo cơ chế một cửa, tại chỗ”
·         “Thu hút các ngành công nghệ cao của các nước phát triển, nhất là phương Tây, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc” (có vẻ cố tình né tránh nhắc đến Trung Quốc)”
·         “Tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu ngân sách và thu nhập bình quân đầu người” .v.v.

Nhìn chung, đây đều là những luận điểm khá quen thuộc để bảo vệ một dự án kinh tế thông thường. Vì vậy, nếu bạn vẫn còn hoài nghi về dự thảo, chưa biết nên ủng hộ hay không, người viết tin rằng những câu hỏi dưới đây sẽ giúp bạn quyết định.

Có cần thiết phải xây dựng đặc khu để phát triển kinh tế hay không?
Chính phủ Việt Nam còn cách nào khác tạo ra các cực phát triển kinh tế mà không cần xây dựng đặc khu không?
Điều gì khiến những phương pháp hiện hữu không hiệu quả bằng đặc khu?

Vì sao ta phải hỏi những câu hỏi này?

Luật hiện hành đã đủ để xây đặc khu kinh tế

Pháp luật hiện hành đã đủ để chính phủ Việt Nam định hướng mô hình phát triển kinh tế quốc gia, không cần đến Luật Đặc khu. Và nếu thật sự chỉ muốn phát triển kinh tế, chính phủ hiện nay đã có đầy đủ công cụ để làm việc. Hãy điểm qua một số công cụ chính.

Chính phủ muốn quyết định chính sách cụ thể và thực tế phát triển kinh tế địa phương, phát triển kinh tế liên vùng? Đã có Luật Tổ chức Chính phủ 2015.

Chính phủ muốn quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng, tỉnh, huyện; quy hoạch phát triển ngành, lãnh vực và sản phẩm? Đã có Nghị định 92/2006/NĐ-CP và Nghị định 04/2008/NĐ-CP.

Thủ tướng Chính phủ muốn toàn quyền xem xét thông qua quy hoạch tổng thể phát triển, hình thành Khu Công nghiệp, Khu Kinh tế; cũng như quyền chấp thuận thành lập chúng? Đã có Nghị định số 29/2008/NĐ-CP.

Chính phủ muốn có thẩm quyền xem xét, thành lập các khu công nghệ cao theo nhu cầu và phương án phát triển kinh tế? Đã có Luật Công nghệ cao.

Vậy nên, khi những người ủng hộ Luật Đặc khu cho rằng luật này là quan trọng, là nhằm phát triển kinh tế, cần nhớ rằng chính phủ có hàng vạn cách để xây dựng Phú Quốc, Vân Đồn và Bắc Vân Phong thành những trung tâm kinh tế lớn mà không cần đến mô hình đặc khu.

Ví dụ, nếu muốn quy hoạch bao nhiêu đất trong khu vực dùng cho mục đích du lịch, bao nhiêu dùng cho dịch vụ dân cư, vị trí xây cảng, vị trí trung tâm du lịch… Thủ tướng Chính phủ chỉ cần dựa vào Luật Đất đai và Luật Tổ chức Chính phủ để xây dựng đề án mô hình phát triển, quy hoạch địa chính tổng thể cho địa phương đó. Quy hoạch của Phú Quốc là một minh chứng cho năng lực này của các cơ quan hành pháp.

Hay nếu muốn xác định một ngành nghề mũi nhọn cho địa phương, như việc mong muốn Bắc Vân Phong tập trung vào “nghiên cứu, sản xuất sản phẩm phần mềm, sản phẩm nội dung thông tin số, sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm; dịch vụ phần mềm, dịch vụ khắc phục sự cố an toàn thông tin” chẳng hạn, sử dụng Nghị định 92/2006/NĐ-CP cũng đủ sức cho phép chính phủ định hướng chủ trương phát triển và sản phẩm chủ yếu của địa phương. Quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của Bộ Công thương vừa được công bố gần đây cho thấy tầm ảnh hưởng đương nhiên của các cơ quan nhà nước trong việc xác lập mục tiêu và định hướng ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu để phát triển kinh tế.

Khi cần thiết, chính phủ cũng nắm quyền sinh sát trong việc có nên thành lập những khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp… và những ưu đãi kèm theo. Có thể dùng Nghị định 04/2018/ND-CP quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi cho Khu Công nghiệp cao Đà Nẵng để chứng minh cho khả năng tự thân của chính phủ nhằm thành lập những vùng kinh tế trọng điểm mà không cần lá phiếu của các đại biểu Quốc Hội.

So sánh với Thâm Quyến năm 1979 là hoàn toàn khập khiễng

Chúng ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề này nếu xem xét chính bản thân các đặc khu của Trung Quốc (mà quan trọng nhất là Thâm Quyến), vốn được các nhà báo quốc doanh và nhóm ủng hộ đặc khu ca ngợi hết lời, và được xem là hình mẫu thành công mà mô hình đặc khu của Việt Nam phải noi theo.

Hãy đặt mình ở Trung Quốc vào năm 1979, khi chủ trương đặc khu kinh tế được Trung Quốc thông qua.

Khi đó, Trung Quốc đã có gần 30 năm thực thi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, vốn đã kéo dài từ năm 1949 khi Đảng Cộng sản giành chiến thắng trong cuộc nội chiến trước Quốc dân Đảng. Thời kỳ Cách mạng Văn hoá 1966 – 1976 càng khiến mức độ tập trung hoá cao hơn, tiêu diệt mọi yếu tố sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Nói cách khác, trước khi quyết định cải cách kinh tế vào tháng 12/1978 và quyết định mở đặc khu Thâm Quyến vào năm 1979, nền kinh tế Trung Quốc là một nền kinh tế khép kín như Việt Nam thời kỳ trước Đổi Mới năm 1986.

Điều đó có nghĩa là, Thâm Quyến và các đặc khu kinh tế thực sự là thứ hoàn toàn mới mẻ với người Trung Quốc khi đó và hoàn toàn có lý khi tin rằng nó sẽ tạo ra đột phá kinh tế. Nhưng Việt Nam ngày nay không còn là nền kinh tế bao cấp như từ năm 1986 trở về trước nữa, mà đã trở thành một nền kinh tế thị trường, tương tự như Trung Quốc ngày nay.

Về nguồn gốc, đặc khu của Trung Quốc thật ra cũng chỉ là thành quả nghiên cứu rất nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất vốn đã trở thành một phần quen thuộc trong các chương trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa của các quốc gia Đông Á như Đài Loan, Hàn Quốc và Philippines. Việt Nam hiện nay cũng phải có hơn hàng trăm khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao tương tự.

Tính mới của đặc khu Trung Quốc của những năm 1979 thật ra không còn gì mới so với Việt Nam hiện đại ngày nay. Ví dụ, đặc trưng nổi bật nhất của các quy định liên quan đến đặc khu của Trung Quốc chỉ đơn giản là hơi thở của đầu tư nước ngoài. Các văn bản hình thành đặc khu là những văn bản đầu tiên ghi nhận các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được tồn tại trên lãnh thổ Trung Quốc từ năm 1949. Nghe rất hoành tráng đối với Trung Quốc 1979, nhưng so với Việt Nam 2018? Không là gì cả.

Còn điểm khiến hệ thống đặc khu mới này của Trung Quốc vượt trội so với những mô hình khu chế xuất, khu công nghiệp khác tại Châu Á vào năm 1979? Vì chúng mời gọi sự tham gia của giới đầu tư nước ngoài đối với mọi loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh như công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi gia cầm, nuôi trồng thủy hải sản, xây dựng, nghiên cứu và sản xuất nói chung… thay vì hạn chế một ngành kinh tế mũi nhọn cho mỗi vùng như một số quốc gia khác. Nghe hết sức rộng mở so với một Trung Quốc 1979, nhưng so với Việt Nam 2018 – cũng không là gì cả. Ngoại trừ các ngành dịch vụ theo Cam kết WTO, chúng ta gần như đã mở mọi cánh cửa có thể để thu hút đầu tư nước ngoài đối với sản xuất.

Vấn đề của Luật Đặc khu tại Việt Nam, cuối cùng, là nó không chỉ nhằm phát triển kinh tế, mà rõ ràng muốn tạo ra những đơn vị hành chính tách biệt với phần còn lại quốc gia, cùng mô hình quản lý hành chính riêng, hệ thống quyền giao đất riêng và thủ tục xuất nhập cảnh riêng.

Việc cần đến Quốc Hội, cuối cùng, cũng bởi vì giới lãnh đạo đang có mong muốn tách các đặc khu thành những đơn vị hành chính mới, có quyền tự trị rất cao so với mô hình tổ chức nhà nước truyền thống của Việt Nam. Vì sao điều này lại cần thiết đến thế? Chúng ta cần câu trả lời rõ ràng từ phía những nhà hoạch định chính sách.

----------------------------------

PGS. TS. Phạm Quý Thọ
Học viện Chính sách & Phát triển
2 tháng 8 2018








No comments:

Post a Comment

View My Stats