Phó Thịnh Đường
17/01/2018
Lời
Giới Thiệu: Tất
Ngưu là người bạn cùng lớp (Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) –
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Việt Nam. Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà thất
điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh. Mộng tìm việc làm trên các
thương thuyền tan theo mây khói. Cùng một số bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn
Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa,… chúng tôi đành
lên đường nhập ngũ tòng chinh. Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân
và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải hành hấp thụ
được ở trường HHTT. Thế rồi trong một trận hải chiến, chiến hạm bị đánh đắm.
Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn ngày không thực phẩm và nước uống, Tất Ngưu
đã chết đi rồi sống lại.
Là
người may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn thận giữ
gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng tải nguyên văn.
Xin
nói thêm là đối với một người đã một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi
chỉ là chuyện phù phiếm. Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng
đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài ý muốn của
anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi, anh đã đồng ý. Dẫu sao đây
cũng là một dịp để xác nhận chiến công của những chiến sĩ vô danh và các đồng đội
mà anh còn nhớ tên trong đó có Trung Sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ Sĩ Nhất Vận
Chuyển (HS1VC) Tây, Hạ Sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa…
Cũng
nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm
kích chiến công của HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc
khóa 13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã đi theo
chiến hạm vào lòng đại dương.
Xin
độc giả dành cho anh Tất Ngưu và các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất.
Riêng tôi, xin “thẩm quyền nước Việt” trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý
nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và hằng mong Thượng
Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.
Phó Thịnh Đường
(nguyên Hải Quân Thiếu Úy Hàng Hải Thương Thuyền)
Florida,
Spring 2006
____
TRẬN
HOÀNG SA
Nhật
Ký của Tất Ngưu
Sài
Gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,
Tôi đã sống lại một kiếp
sống thứ hai. Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi
không còn một tia hy vọng trong trí não. Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi
sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh
trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ
gồm kẹo và nước uống.
“Te-Tít
… Te-Tít … Te-Tít …Te-Tít … Te-Tít … Nhiệm sở vận chuyển.”
Hạm
trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ huy ra lệnh tháo giây. Một số anh em khấp
khiểng chạy về chiến hạm. Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân
viên trên tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.
“Nhanh
lên, tầu rời bến, nhanh lên!”
“Tủm!”
“Ối!”
Anh
HS1TP Tám chếnh choáng rơi tùm xuống nước. Tôi thấy hạm kiều náo động, nghe tiếng
hối thúc:
“Thả
phao”, “Vớt người”, …
Đó
phải chăng là một điềm chẳng lành.
Chiến
hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm lình bình tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh
theo HQ 5 trực chỉ quần đảo Hoàng Sa. Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các
thuyền đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa (Duncan).
“Chuẩn
Úy, Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”. Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn đồng hồ. Đã 2345H (11
giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ. Thời tiết tháng Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm
một chiếc áo choàng mầu navy blue. Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả
trôi tại quần đảo Hoàng Sa. Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai
tuần dương hạm HQ5, và HQ16.
Trong
suốt ca trực từ 2400H đến 0400H, tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau. Anh
này vừa mới tân đáo và đây là chuyến công tác đầu. Tôi nghe anh ta kể lại những
ngày huy hoàng sống ở giang đoàn. Nào là bắt những con tôm càng, thịt, bánh mì
sandwich, v.v… Nghĩ mà thú nhỉ!
Vào
khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị – không đúng – một công điện khẩn thì đúng
hơn: “0600H GIỜ THI HÀNH”. Tôi trình công điện lên hạm trưởng. Đêm đó hạm trưởng
an giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy. Thời gian đi như chợp mắt, mới
đó mà đã đến gần 0400H rồi. Tôi gọi:
“Anh
Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên đổi ca giùm đi!”
Thế
rồi hạm trưởng thức giấc. Đứng trên đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để
quan sát vị thế, rồi ra lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Một hồi còi rợn người
nổi lên: “Tít … Tít … Tít … Tít … Tít … Tít…” Tiếng của hạm trưởng vang trên hệ
thống nội thông:
“Đây
là Hạm Trưởng”
“Nhiệm
sở tác chiến, nhiệm sở tác chiến”
“Tất
cả vào nhiệm sở tác chiến”
“Nhiệm
sở tác chiến”
“Tất
cả vào nhiệm sở tác chiến”. “Tít … Tít … Tít … Tít … ……”
Tất
cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức giấc. Ai nấy vào nhiệm sở của mình. Riêng
tôi, vừa đi xong ca cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại
vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ. Ngay sau đó:
“Nhiệm
sở phòng không” “Nhiệm sở phòng không”
Tôi
thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45 độ, nào là các
đại bác 76 ly 2, bô-pho 40 ly, 20 ly, đại liên 30, súng cối 81 ly.
“Đài
chỉ huy, đây sân mũi, 76 ly, 2 cò điện bất khiển dụng”
“Thôi
được, cho dùng cò chân”
“Đài
chỉ huy, đây 41, 42 tôi phát hiện một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta,
hướng 3 giờ.”
“Đài
chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu hướng về hướng 3 giờ”
“Đài
chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất dạng”
Toàn
thể nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng. Chắc hẳn mọi
người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ xảy ra. Có lẽ cũng giống
như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một
ngày về với bộ tiểu lễ trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy
những huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc chiến:
thương vong.
Khoảng
thời gian từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến,
và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh
dương, hải đội của ta lập thành một đội hình. Bên địch (Trung Cộng) cũng gồm bốn
chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại có vẻ như muốn khiêu
khích. Lắm lúc như muốn đâm thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta. Sau một thời
gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để
công kích nhau.
Sau
một loạt đèn hiệu được choé sáng, từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía
Bắc, di tản, và bốn chiến đỉnh của họ vận chuyển song song để bảo vệ.
Thế
rồi anh em trên chiến hạm thoáng nét vui mừng.
Ồ!
họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta. Nào ngờ sau khi bốn tầu
đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu trở lại với lối vận chuyển đầy
khiêu khích. Chiến hạm lại nhận được lệnh chuẩn bị tác chiến. Tất cả nòng súng
hướng vào phiá đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trên tầu anh em xôn
xao căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn vô tri
này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu nhân mạng trên đảo sẽ
bị chôn vùi dưới lòng đại dương.
Trông
chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần nản chí, không
còn vẻ hăng say của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò
đùa. Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch và ta, bẵng đi
việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến. Một số nhỏ hớ hênh để súng cá nhân xuống
sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa với nhau. Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ
không có gì lót dạ, anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò
trong bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để dùng
cháo.
“Th/úy
Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”
Khi
Th/úy Mai vừa dùng diểm tâm xong, chúng tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các
chiến hạm địch: Bất kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu
chính yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.
Và
rồi những nòng súng nay đã được hướng vào chiến hạm địch. Rồi những chiến hạm của
địch và ta lại tiếp tục quần thảo nhau.
Vào
khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN” được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc
headphone. Riêng tôi, trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20 ly
và súng cối 81 ly ở sân sau. Tôi vội vã hô to:
“Bắn,
bắn nhanh lên”.
Những
tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm
lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch.
TSTP
Xuân hiên ngang đưa khẩu 20 ly qua lại, bắn liên hồi.
“Tạch
… Tạch … Tạch …”
“Ối!
sao khẩu 20 ly không bắn nữa?”
“Thưa
Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”
“Trở
ngại thế nào?”
“Kẹt
đạn”
“Bắn
một nòng”
“Tạch
… Tạch … Tạch …”
“Hết
đạn”
“Nằm
xuống, để tao”, Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20
ly.
“Tạch
… Tạch …Tạch ..”
Trong
khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua chạy lại lấy đạn 81 ly nạp vào khẩu súng cối.
“Ầm!”
“Ầm!”
Tầu
địch bốc cháy. Tôi thấy những viên đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu
địch.
“Rầm!!!”
Có
giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn:
“Tàu
Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.
Một
loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của
ta đâm vào tầu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả
hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh.
Sau
khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những
tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị
cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số
nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy. Những anh còn tỉnh thì được kéo lên
boong chánh. Trung úy Huỳnh Duy Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường
Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10, chẳng
may đã tử trận trong hầm máy. Ôi! tiếng rên la áo não ngần nào. Đài chỉ huy
hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy
cũng bay mất một góc.
Hộ tống hạm Nhật Tảo
HQ-10
Phòng
y tá hoàn toàn thiêu trụi. Trong phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm
phòng tai), sĩ quan phòng tai HQ Thiếu Úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên
la với một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến sân
sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng. Các anh em bị thương khác không có thuốc
men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.
“Ồ!
HQ16, anh Thương hãy đánh SOS cho họ đến tiếp cứu!”
Chúng
tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16 đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn
toàn của chúng tôi. Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên
tàu. Chính lúc này Thiếu Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh trên
đài chỉ huy. Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê liệt hoàn toàn đã ra lệnh
cho chúng tôi đào thoát. Những giòng tư tưởng quay cuồng trong tôi. Thế còn
tàu? và nếu có đào thoát, chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ
quay lại cứu mình.
Những
tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn. Nhìn ra phía sau, hai
chiến hạm địch lù lù tiến đến, hướng về phía mình. HQ16 di tản càng ngày càng
xa. Trên boong thây xác ngổn ngang, chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa.
Trên mặt biển, đồng đội lô nhô trên những bè cấp cứu. Ôi thay! tôi tự hỏi mình
có nên đào thoát hay không.
Hạ
sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng rung rung:
“Ch/úy.
Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé!”
“Rồi
cứ nhẩy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”
“Ch/úy,
phao này cho hơi vào cách nào?”
Tôi
bèn kéo chốt cho hơi vào phao và nói anh ấy nhẩy đi. Một chốc sau ngó xuống nước
tôi lại không thấy anh ta đâu nữa. Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt
vào thành tàu. Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy đến:
“Ch/úy
nhẩy nhanh lên, kho đạn 20 ly và 40 ly nổ, nhẩy nhanh lên!”
TSVC
Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy xuống. Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại
to, ngẩm không biết mình có thể bơi ra đến nơi không.
Xin
mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhẩy,
nhưng anh ta trả lời rằng: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ
nhẩy đi.”
Thật
đúng y như câu nói của người xưa: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm
chiếu hãn thanh”. Chẳng biết HS1VC Tây có được đến trường để học và thấu hiểu
câu nói thâm thúy này không? Anh có nghe ai bàn về câu nói ấy không?!! Thế mà
anh đã thực hiện được sự việc đó mới là hay chứ. Việc mà chỉ có những đại anh
hùng, các bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm được.
Thật là anh hùng. Tôi xin ngã mũ.
Lớp
ngớp trên mặt biển, bơi mãi vẫn không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối! phải
biết ở lại tàu còn hơn!” Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong
phao cá nhân của tôi đã được bật ra. Thuốc hòa lẫn với nước biển biến thành một
vũng mầu xanh lá cây. Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt xa. Mỗi lần sóng đánh đến,
nước biển lại tràn vào miệng cùng với thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay
cay, Ôi! hơi sức nào để ý đến nữa, mục đích là sự sống. Chỉ làm cách nào bám
vào được bè, mạng sống mới có thể vãn hồi. Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa
mà bơi ra bè. Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không cho phép tôi
ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn thấy mặt anh em, tôi ngất đi
trong giây lát. Phải chăng lực tiềm tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm
thấy sự sống nên lực đó không cần thiết nữa. Khi được kéo lên bè, người tôi lã
đi vì đói khát mệt mỏi.
Thật
là “họa bất đơn hành”, sau khi ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về
hướng tàu, trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới, khẩu
20 ly trên HQ10 cứ nổ vang. Hai chiến hạm của TC cũng không vừa, cứ vừa tiến vừa
tác xạ, thế rồi khẩu 20 ly đành im bặt. Những tiếng súng sau cùng đó… Hỡi ơi!
anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ
bất tử của HQ10. Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ
có những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu. Nói đến sự hy sinh chiến
đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan niệm của mỗi con người.
Có người cho rằng: “Quân tử phục thù, thập niên vị vãn”. Nhưng theo tôi, các
anh là những tấm gương anh dũng rạng ngời. Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với
dòng chữ xâm trên tay “Mặc Thế Nhân”. Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi dưới
đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10. Ước gì tên tuổi của hai anh
HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử xanh.
HQ 10 Nhật Tảo
Hai
chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông tha một chiến
thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển. Chúng cứ luân phiên nhau vây
đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu tiến đến bè của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ là nếu
họ tác xạ mình thì anh em lại đào thoát lần thứ hai. Mắt Thượng Đế vẫn còn đây,
bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn. Tôi tự nhủ hãy phó thác mạng
sống mình cho Trời Phật. Số đã sống thì không thể chết, số chết thì không sao cứu
vãn được. May thay họ lại bỏ đi. (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo – cộng
sản làm gì có nhân đạo – lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ
chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông. Họ chẳng cần vớt người làm chi cho nhọc
công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang tiếng với quốc tế.)
Qua
cơn bỉ cực đầu tiên, tôi phải đương đầu với đại dương trùng sóng và đói khát.
Người đã mệt lã đi, lại cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ. Tôi say sóng cũng
thường rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập, tôi ói
ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy người không còn chút sức
lực nào.
Nhìn
lại xung quanh, tôi thấy tất cả có năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã
bị bắn thủng. Chúng tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn,
một cái bè bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không thể lại gần
nó được. Bè đông người và được cột chum nhau, chìm xuống mặt nước. Chúng tôi
không có một dụng cụ nào khác để chèo ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến
chiều hôm đó (ngày 19 tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối.
Mắt trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần đảo được,
vì hôm đó sóng quả rất to.
Sau
khi kiểm điểm lại chúng tôi chia làm bốn bè:
Bè
số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa, Th/úy Mai, HSBT
Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.
Bè
số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A,
HSTP Lợi, HSTP Tuấn và TT1CK Hà.
Bè
số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP Châu, TSĐT Thọ.
Bè
số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân
có thể nằm cho không ướt người. Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.
Riêng
về bè trôi dạt không thể cột chùm được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK
Nữ, HSTP Sơn, HSCK Cứng, TT1TX Long.
Bầu
trời đã tối mịt, sóng lại to hơn. Anh em mệt lã người phần vì đói khát, phần vì
mệt nhọc sợ hãi. Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi
vào đảo được. Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng. Thân xác Hạm
Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.
Suốt
đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột. Anh
em cứ ôm gồng lấy nhau mà rung rẩy chờ đêm qua. Đêm sao qua chậm thế! Giờ này mới
ba giờ đêm, bốn giờ, năm giờ, … trời bắt đầu sáng. Thật là quái dị. Đêm vừa qua
lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc. Phải chăng ông Trời cũng
không dám diện kiến một cảnh tượng thê lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?
Thân
mệt nhừ, tôi quay qua quay lại nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:
“Ủa!
đảo hôm qua đâu?! Thôi rồi anh em ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?!”
Ai
nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì
chúng tôi mới hỡi ơi là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc,
nếu muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.
Cơn
đói khát lại hành hạ. Sau khi kiểm điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm
nào cả dù rằng dây buộc vẫn còn đó. Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa
20 lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng kẹo. Thế rồi
phải lấy ra gom lại chia đều ra. Trong đó có 6 bao kẹo không thể sử dụng được,
nhưng cũng để dành lại đó. Chúng tôi khui những lon nước, mỗi người hớp một ít,
và ăn một miếng kẹo.
Những
người bị thương nặng như TS1GL Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu
nên họ cứ đòi nước mãi. Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy
vọng sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của ta ra cứu
vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế. Nhất là nghe các anh bị mất nhiều
máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi không đành nên cho họ uống cả lon. Khoảng
9 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời
trối trăn, mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát, khát quá…. Ý thức
được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết,
chúng tôi tự hạn chế trong việc sử dụng nước ngọt và kẹo. Bè cứ mặc cho dòng nước
đưa trôi. Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang. Chúng tôi thắc mắc phải
chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải chiến lại tiếp diễn?
“Anh
em hãy gắng sức chèo về hướng Tây Nam, đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo
hôm qua ta tranh giành”…
“Cố
lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn”…
Khoát
nước, chèo mãi vẫn không đi tới đâu.
“Thôi
chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo hướng Tây Nam
sẽ đến đảo ngay.”
“Anh
em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay, nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng
đến gìờ coi như hoang phí. Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”…
Bè
nay đã được cột chùm vào nhau; lúc đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các
bè cứ va đập vào nhau. Bè lật, vỡ bể thêm ra. Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối
đuôi nhau. Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ. Những bè sau
đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì,
Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa, HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để
chèo. Đêm đó cứ luân phiên nhau mà chèo. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn,
nhưng trong đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để
chèo. Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.
Khoảng
sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa
châu lóe lên rồi mất hẳn. Tôi mới hô to:“Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm
ta, hai là lính địa phương quân trên đảo. Anh em hãy chèo về hướng đó nhanh
lên!”
Nhưng
trời chưa tha bọn người hoạn nạn như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa
lại phải chèo ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ. Buồn
thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng ra đi không một lời
từ biệt – TS1GL Thương. Buổi chiều, thêm TSĐT Thọ từ giã anh em. Xin được mỹ miều
chua xót ghi là “Sáng, thủy thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm
người theo hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”
Có
lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng
vẳng bên tai một cách yếu ớt “Khát quá … khát quá …” Tinh thần của anh em lúc
này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên mình, nghĩ đến những
bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói
là mọi người như sắp điên loạn. Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:
“Đây
cách Đà Nẵng bao xa?”.
“Khoảng
trăm mấy, hai trăm hải lý.”, tôi nói.
Thế
là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu không ông sẽ
đi một mình! Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên bè xuống biển. Thế rồi chúng
tôi lại phải thất công lần lượt kéo từng người lên. Thượng Sĩ Châu đã mất trí!!
Ban
ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có
đảo. Nhưng nhìn dáo dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả. Kẹo và nước ngọt đều
dùng cạn. Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha nước tiểu
với nước biển để uống. Lúc bấy gìờ không ai để ý đến đói, nhưng cơn khát hoành
hành cảm thấy thấm thía. Đêm đó ai nấy đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè
lại với nhau đứt hồi nào không hay.
Sáng
hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy một bè nào cột bên cạnh
bè mình. Nhìn về trước, một bè trôi khá xa. Ngó về phía phải cũng thấy một bè,
nhưng cố gắng chèo mãi mà không sao tới nổi. Dần dần những bè đó khuất dần
ngoài tầm mắt của tôi Trưa rồi lại chiều. Chân tôi giờ này sưng thủng, không
sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát quá … khát quá”. Mắt,
miệng đã sưng vù lên. Th/úy Mai đã nói lâm râm:
“Ch/úy
Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”
Tai
tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó, đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào
thoát khỏi tử thần trong đêm nay – có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình
có đủ điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?
Chiều
hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt. Thình
lình HSCK Hòa thét lên: “Có tàu!”
“Ôi!
tàu đâu, tàu đâu?”
Một
cứu tinh hiện trước mặt. Lúc đó tự dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ
áo phao đỏ mà phất. Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu
tinh còn cách bè mấy hải lý.
Tàu
dầu Kopionella của Shell Hòa Lan
Tàu dầu Kopionella của
Shell Hòa Lan
“Phải
rồi! Chúng ta đã sống, tàu đang ngừng!”
“Có
lẽ họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên, nếu đêm tối
họ sẽ không nhìn thấy để cứu vớt ta, la lớn lên anh em.”
“Một
hai ba… Ô!” “Một hai ba… Ô!” “123…Ah!” “123… Ah!”, một mặt lo chèo, mặt khác la
to lên.
“Hình
như bè không tiến tới chút nào cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”
“Anh
em ơi, nhẩy xuống bơi!”
Nhưng
hơi sức đâu mà bơi nữa. nhất là vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại
không còn.
“Ô
kìa! tàu quay đi đâu? Thôi chết rồi, hết hy vọng rồi, cố lên anh em!”
Hy
vọng xen lẫn thất vọng. Màn đêm đang dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng
đèn tàu rực lên. Ôi chao! Trông chiếc tàu dễ thương biết bao! Sau đó một ánh
đèn pha rọi sáng và từ từ di chuyển.
“À!
họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng ta. Sao họ chạy đường kia?”
“Có
lẽ họ đang vớt đồng đội mình. Kìa, họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”
“Ah!
Oh! help us sir, please help us.”
“Okey,
take it easy, be careful. Are there any wounded?”
“Yes
sir, most of us are wounded.”
“All
right …”
Chiếc
dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp
về tàu. Trên dzu dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị
thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên lạc với thuyền
trưởng. Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu. Trên tàu, các thủy thủ người Hồng Kông
đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu. Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên.
Khi thành của dzu dzu ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ
hai nhân viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.
Họ
đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi tất cả quần áo ướt ra, đắp cho mỗi người một
tấm chăn, rồi cho chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm. Cùng lúc đó họ
đem cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá. Sau đó thuyền phó hỏi tôi
là hình như trong nhóm có một lieutenant. Tôi đáp lại rằng chỉ có Lieutenant
Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ Tr/úy Thì. Ông đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa
và lên phòng ông để liên lạc với Hải Quân Việt Nam.
Chúng
tôi đã thật sự sống lại. Ngay khi đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô
to lên với anh em:
“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên
chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”…
Ghi chú: Th/úy Nguyễn đông Mai là một
sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trước khi xảy ra
trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày đeo lon Trung Úy; sau khi trở về,
Tr/úy Mai được đặc cách thăng cấp lên chức Đại Úy.
Tác
giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10
Bổ
túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11
Sửa
kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim
Giới
thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường
Yêu
cầu: Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS
Phóng dồ hải chiến
Hoàng Sa
____
Bổ
túc chi tiết:
Trước
trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng.
Lúc trận chiến diễn ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhật Tảo
HQ10. Khi rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10. Giữa đường đến
quần đảo Hoàng Sa, để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng,
HQ11 đã được lệnh gọi quay trở về. Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn
Kết. Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau.
(E-mail
ngày 30 tháng 3 năm 2006)
Không
biết là Tất Ngưu có biết (hay có nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh
sách các chiến sĩ của HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên …
Hôm
đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11, khi anh hạ sĩ trực máy truyền
tin nhận được tín hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng
nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên tầu …
Tớ
không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên của Chuẩn úy Tất
Ngưu được đọc lên trong máy …
Ký
tên,
Nguyễn
văn Kết
Sau đây là tên các
chiến sĩ sống sót được chép lại từ quyển nhật ký của Tất Ngưu:
Danh sách thủy thủ đoàn thuộc Hộ Tống Hạm NHẬT TẢO HQ10
đã trở về sau trận hải chiến Hoàng Sa:
1
Trung sĩ Bí Thư TSBT Võ văn Bằng
2
Trung sĩ Tiếp Vụ TSTV Đỗ kim Hoàng
3
Hạ sĩ 1 Trọng Pháo HS1TP Nguyễn văn Tám
4
Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Trần ngọc Sơn
5
Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Phạm văn Lợi
6
Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Võ văn Tuấn
7
Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Lê tấn Hưng
8
Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Vương văn Và
9
Hạ sĩ 1 Cơ Khí HS1CK Lưu tố Nữ
10
Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Nguyễn hồng Cứng
11
Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Huỳnh văn Hòa
12
Hạ sĩ Tiếp Vụ HSTV Nguyễn văn A
13
Thủy thủ 1 Cơ Khí TT1CK Trần văn Hà
14
Hạ sĩ Bí Thư HSBT Đỗ văn Thành
15
Thủy thủ 1 Thám Xuất TT1TX Trương văn Long
16
HQ Trung úy K8/OCS Hà đăng Ngân
17
HQ Trung úy K20/NT Phạm văn Thì
18
HQ Trung úy K1/70 ĐB Ngô văn Hòa
19
HQ Trung úy K25/VBĐL Nguyễn đông Mai
20
HQ Thiếu úy K24/NT Phạm thế Hùng
21
HQ Chuẩn úy K1/IOCS Tất Ngưu
No comments:
Post a Comment