Friday, 27 February 2015

Từ trại giam đến trại Guam | Phần II (Đinh Từ Thức)





26.02.2015

Biệt vô âm tín

Trong tù, chúng tôi hoàn toàn không biết gì về tình hình bên ngoài. Ở ngoài, gia đình cũng hoàn toàn không biết chúng tôi bị giam giữ ở đâu. Bác Sĩ Đặng Văn Sung, đã có thời hợp tác với ông Thiệu, cũng không biết được tin tức gì về chúng tôi. Sau này gặp lại gia đình, được biết bên ngoài có rất nhiều tin đồn về số phận chúng tôi. Người đồn chúng tôi đã bị mang ra Côn Sơn, người khác đồn chúng tôi đã bị thủ tiêu. Trong khi ấy, chúng tôi vẫn bị giam ở Sài Gòn, và chuyện thủ tiêu, không phải chỉ là lời đồn bên ngoài, mà cũng được các thẩm vấn viên đề cập tới để gián tiếp đe doạ. Kỹ thuật thẩm vấn trong tù, bao giờ cũng có ít nhất hai vai trò, một người đóng vai “ông ác”, người kia là “ông thiện”. Tuy thủ vai ác, người này chỉ tỏ ra nghiêm nghị, lạnh lùng, không bao giờ có thái độ hung ác với chúng tôi. Riêng vai thiện, bao giờ cũng tỏ ra niềm nở, cứ như bạn thân lâu ngày mới gặp. Một hôm, tỏ vẻ ái ngại cho tôi, ông ta “tiết lộ bí mật”: Mới có thêm nhiều nhân vật quan trọng bị bắt, không hiểu ông có việc gì không, có bị ai khai ra điều gì bất lợi không. Trong số những người bị bắt, có cả Đại Tướng Cao Văn Viên, và Bác Sĩ Trần Kim Tuyến…. Rồi bỗng nhiên ông ta hỏi “Ông bị bắt ở nhà, hay bắt cóc giữa đường?” Tôi nói “Ở nhà”. Ông ta nói: Thế thì không đáng lo. Nhiều người bị bắt giữa đường, không ai biết, ban đêm bị đưa lên trực thăng, chở ra biển, đẩy xuống. Thiếu gì! (Khi ra tù mới biết Đại Tướng Viên và Bác Sĩ Tuyến không hề bị bắt).

Trong tù, người ta thường thẩm vấn vào ban đêm, khiến ban ngày buồn ngủ. Trong giấc ngủ trưa ngày 8 tháng 4, cỡ một hai giờ, trong giấc mơ, tôi thấy hai chiếc phi cơ phản lực sơn rằn ri, một chiếc bỏ bom dinh Độc Lập, nhưng ông Thiệu không việc gì. Giật mình dậy, thấy mọi chuyện vẫn như thường. Tôi giữ kín về giấc mơ, sợ nói ra, nếu nó xảy ra thật, sẽ bị điều tra lôi thôi. Về sau tôi mới biết có chuyện bỏ bom thật, nhưng chỉ có một chiếc máy bay do Nguyễn Thành Trung lái, và nó sẩy ra trước giấc mơ tới năm sáu tiếng.

Tối ngày 8 tháng 4 này, tôi bị chuyển từ phòng giam thường vào xà lim (cellule). Phòng biệt giam giống cái hộp bằng xi măng, rộng hơn một mét, dài và cao mỗi chiều cỡ 2 mét, góc tường đầu phía trong có vòi nước, dưới là chỗ thoát nước; lấy nước uống, tắm rửa và đại tiểu tiện đều ở đó. Từ trước, từng nghe nói “uống nước cầu tiêu” mà không hiểu. Bây giờ, chính mình được trải qua.

Phòng kín và nóng như thiêu, chỉ có một lỗ hình tròn nơi cửa cỡ tầm mắt người đứng, để người canh tù nhìn vào theo dõi và chút ánh sáng heo hắt bên ngoài lọt vào. Người bị giam chỉ mặc đồ lót, hay không mặc gì. Đôi khi có cảm tưởng như đang du lịch miền Ả Rập, tường xà lim là bộ niqab phủ kín người, chỉ còn cái lỗ cửa để đôi con mắt giao tiếp với bên ngoài. Tù ngủ ngay dưới sàn, bốn không: không màn, không gối, không gường, không chiếu. Chuột và cóc tự do thăm viếng bất cứ giờ nào, qua lỗ tiêu nước. Khi đưa tôi xuống nhốt ở xà lim, cả nhân vật số một và số hai của Cảnh Sát Đặc Biệt đều có mặt. Trước khi đóng cửa xà lim, ông Số 2 hỏi ông Số 1: “Có để lại cho ông ấy cái gối không?” – “Không!” là câu trả lời, cùng lúc cánh cửa sập lại. Cũng may, nhờ không có cái gối, thỉnh thoảng chỉ bị chuột liếm đầu ngón chân, không bị rệp làm thịt.

Sau được biết, tôi bị chuyển vào xà lim, không phải vì lý do kỷ luật, mà để lấy phòng giam ông Nguyễn Trân, bị bắt sau tôi. Ông này hồi Đệ Nhất Cộng Hoà là Tỉnh Trưởng Mỹ Tho, chính khách từng gây ồn ào dư luận một thời. Vào một đêm hồi mới vào xà lim, nghe tiếng một người mới bị đem vào, vừa đi, vừa thở hổn hển, vừa ho rũ rượi. Tôi ngó qua lỗ cửa, thấy bóng dáng một ông cụ già, đầu trùm hum, lưng còng, đang khó nhọc cố lê bước giữa hai nhân viên đỡ hai bên, về phía xà lim cuối dẫy. Nghĩ bụng, già thế còn bị bắt, không hiểu chuyện gì. Mấy hôm sau, từ phía xà lim cuối dẫy ấy, cất lên tiếng hát ấm cúng tuyệt vời của Duy Trác, “Em đến thăm anh một chiều mưa”. Duy Trác cũng ra tù cùng ngày với chúng tôi. Hỏi chuyện này, anh xác nhận: “Còn ai vào đấy nữa”.

Tuần lễ cuối tháng Tư, ngó qua lỗ cửa, không còn thấy người mới bị bắt dẫn vào thêm. Dấu hiệu lạ. Một chế độ luôn gắn liền với hai chữ “thắng lợi”, bỗng nhiên không bắt thêm người; chuyện gì đã xảy ra bên ngoài?

Quả nhiên, chiều 24 tháng 4, một viên chức vừa gõ cửa xà lim, vừa chõ mồm qua lỗ: Ông chuẩn bị trở về phòng cũ nghỉ cho khoẻ. Trở lại phòng giam hai tuần lễ đầu, thấy các anh Đậu Phi Lục, Nguyễn Hữu Dương, và cả ông Nguyễn Trân đều đã ở đó. Truyện trò vui như tết. Vẫn không biết gì về tình hình bên ngoài, nhưng chúng tôi đoán sắp được về. Sáng sau, được báo tin một tướng lãnh sẽ tới gặp chúng tôi vào buổi chiều, và chúng tôi có thể về vào hôm sau.

Không có Tướng nào tới gặp như đã loan báo. Sáng sau, Thứ Bảy 26 tháng 4, được báo tin Tổng Thống Thiệu đã từ chức – thật ra, ông Thiệu rời Sài Gòn tối hôm trước – Phó Tổng Thống Hương đã lên thay, “quý vị sửa soạn ra về, hợp tác với tân Chính Phủ để cứu nước”; sẽ có xe của Chính Luận tới đón. Mỗi người chúng tôi được cấp một tờ chứng nhận “Trả tự do”, với lý do bị bắt là “Tình nghi âm mưu lật đổ Chính Phủ”.

Ông Thiệu xuống, ông Hương (trái) lên

Tìm đường tháo chạy

Trên đường về toà báo, điều ngạc nhiên đầu tiên đập vào mắt là cảnh người ta hối hả đi lại trên đường phố, đông hơn cảnh sắm Tết vào mấy ngày cuối năm. Người lái xe cho biết tình hình bi đát lắm rồi, Cộng quân sắp vào tới Biên Hoà, mọi người đổ ra đường tìm lối thoát.
Về tới Chính Luận, Bác Sĩ Sung, gia đình các anh Lục và Dương đợi sẵn. Gia đình tôi không có ai. Người trong toà báo cho biết, sau khi tôi bị bắt, nhà tôi đã đưa các cháu về sống với ông bà ngoại, không biết tin tôi về. Anh Lục còn đưa tôi 50.000 đồng, nói là tiền lương tháng rồi chưa lãnh. Thay vì về nhà, tôi được chở thẳng về nhà ông bà ngoại các cháu. Gõ cửa trong niềm phấn khởi được gặp lại vợ con. Ông anh họ nhà tôi ra mở, báo tin thay lời chào: “Cô và các cháu cùng với ông bà đi rồi! Không biết đang ở đâu”.

Vội về nhà, cảnh vật vẫn y nguyên, dẫy bàn học của tụi nhỏ còn kê chỗ cũ, hàng giầy trẻ con ngay ngắn nằm cạnh chân tường, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Nhìn những đôi giầy, hình ảnh mỗi đứa lần lượt hiện ra linh động. Đứa nhỏ nhất, mới 6 tháng, chưa biết đi, không có giầy để lại, nhưng cái võng nó thường nằm vẫn còn đó. Nếu không có con chó nhật còn nhớ chủ, cuốn quýt bên chân, khung cảnh yên tĩnh như một phòng trưng bầy trong viện bảo tàng giờ đóng cửa. Vật đó, người đâu? Tôi đứng lặng hồi lâu. Đúng một tháng trước, tôi bỗng biến mất. Bây giờ, đến lượt vợ con tôi biến mất!

Ông ngoại các cháu vốn là thông dịch viên cho DAO. Giữa tháng Tư, DAO khuyên ông ra đi, tránh nguy hiểm tới tính mạng. Trong lúc không biết tôi đang ở đâu, và sống chết ra sao, ông nêu đề nghị: Sẽ chỉ ra đi, nếu nhà tôi và các cháu có thể đi theo. Nếu không, sẽ ở lại. DAO chịu, nhưng ông còn phải đưa lý do “đi khó dễ về” ra thuyết phục, nhà tôi mới chịu đem các cháu đi theo, sợ mang tiếng đem con đi, bỏ rơi chồng trong tù.

Sự giúp đỡ của Nhạc Phụ và quyết định sáng suốt của nhà tôi đã giúp tôi dễ dàng xoay xở khi ra tù. Nếu không, rất có thể đã nằm trong số ra tù nọ vào tù kia. Trong số này, có cả anh Đậu Phi Lục, ít lâu sau khi ra tù Việt Cộng, đã ra đi vĩnh viễn. Sau mấy tiếng đồng hồ tìm hiểu tin tức để biết rõ tình hình, tôi đi đến quyết định: Ra đi bằng mọi cách, càng sớm càng tốt.

Thứ Hai, 28 tháng 4, ghé Chính Luận, Bác Sĩ Sung cho biết Toà Đại Sứ Mỹ hứa sẽ bốc một số, có thể lên tới cả trăm người; những ai bị bắt mới ra tù nằm trong danh sách ưu tiên. Hẹn hôm sau có mặt tại toà báo, đợi xe tới đón.

Trên đường về nhà, đi qua nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, gặp Nghị Sĩ Nguyễn Đức Quý vừa tham dự lễ trao quyền từ Tổng Thống Trần Văn Hương sang Tổng Thống Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập về tới trước cửa nhà. Anh Quý mời vào chơi. Truyện đang vui, bỗng nghe tiếng máy bay thấp, và tiếng súng nổ như pháo rang ở phía Dinh Độc Lập. Anh Quý nói khi rời Dinh, anh Huyền – Phó Tổng Thống mới Nguyễn Văn Huyền – vẫn còn ở đó, bèn bốc máy gọi ông Huyền, hỏi cớ sự. Ông Huyền cũng chỉ nghe tiếng máy bay và tiếng súng, chưa hiểu chuyện gì. Anh Quý đưa máy, ông Huyền mừng tôi đã ra tù, hẹn gặp lại. Tôi về nhà trước giờ giới nghiêm mới, bắt đầu sớm khi trời vừa tối. Ông cụ thân sinh thở ra nhẹ nhõm “tưởng bố mày không về được”.

Sông dài, biển cả

Trong khi Tổng Thống Thiệu còn bận với Chiến dịch Trường giang (sông dài) lo chống đảo chánh, trong khi chúng tôi còn nằm trong tù, mù tịt về tình hình bên ngoài, trong khi các chiến sĩ Sư Đoàn 18 anh dũng cố giữ Xuân Lộc, chặn đường địch quân tới Sài Gòn, phía Mỹ đã kín đáo lo kế hoạch di tản (evacuation). Ngày bắt đầu kế hoạch này được gọi là “E-day” (Evacuation Day). Có hai E-day: bí mật (Black E-day) và chính thức (Official E-day). Đây là thời gian chúng tôi còn trong tù, nhưng dù ở ngoài, cũng không biết được, vì mọi chuyện diễn ra trong vòng bí mật. Phải mấy chực năm sau, những chuyện này mới lộ dần, nhờ sách báo mà tác giả là những người trong cuộc, và các tài liệu được giải mật.

Dù không trực tiếp trải qua, nhưng nếu không nói tới những gì xẩy ra cùng thời với câu truyện ra đi của tôi, sẽ là một thiếu sót, nên trong phần này, tôi xin ghi lại những gì quanh E-day, theo các tác phẩm đã xuất bản: Decent Interval của Frank Snepp; U.S. Marines In Vietnam, The Bitter End 1973-1975 của Thiếu Tá George Dunham và Đại Tá David Quinlan; và Tears Before The Rain của Larry Engelmann.

E-day thiếu một kế hoạch công khai rõ ràng, vì nhiều lý do:

1- Trước hết, cho đến giữa tháng 4, Quốc Hội Mỹ vẫn chưa bỏ phiếu quyết định có viện trợ cho VNCH 722 MK triệu không. Không thể bắt đầu di tản trong khi vẫn xin viện trợ để giúp VNCH tồn tại.

2- Di tản sẽ gây hoang mang trong dư luận, cả Mỹ lẫn Việt.

3- Về phía Mỹ, từ Washington đến Sài Gòn, đều muốn chiến tranh chấm dứt trong vòng trật tự, êm thấm. Để đạt được điều này, tại Washington, Ngoại Trưởng Kissinger đã gặp Đại Sứ Liên Xô Anthony Dobrynin, nhờ chuyển một thư vắn tắt của Tổng Thống Ford cho Tổng Bí Thư Brezhnev, yêu cầu can thiệp với Hà Nội hầu có một thời gian giống như “hưu chiến”, để di tản hết người Mỹ và một số người Việt. Tại Sài Gòn, trưởng nhiệm sở CIA là Tom Polgar, gốc Hung Gia Lợi, quen một số người Hung trong Uỷ Hội quốc Tế, cũng hy vọng một giàn xếp tương tự. Nhưng ngày 17 tháng 4, CIA nhận được tin tình báo cho biết không có chuyện thoả hiệp, Cộng Sản quyết chiến thắng bằng quân sự, sẽ mừng sinh nhật HCM tại Sài Gòn ngày 19 tháng 5, và mở cuộc tấn công chót trễ nhất vào ngày 1 tháng 5.

Tuy ở Sài Gòn, Ông Đại Sứ vẫn còn hy vọng vào một giải pháp ra đi êm thấm, cuộc di tản lậu (Black E-day, còn được gọi là black-ops) đã bắt đầu.

Trước hết, dựa vào quyết định của Tổng Thống Ford, chi 2 triệu MK công quỹ cho 30 chuyến bay chở khoảng 2.500 trẻ mồ côi khỏi VN (Operation babylift), một số nữ nhân viên của Lãnh Sự Quán Biên Hoà, và DAO Sài Gòn, được cho về Mỹ, đóng vai trò người săn sóc trẻ trên chuyến bay C-5A chở trên 300 người rời Sài Gòn ngày 4 tháng 4. Không may, sau khi cất cánh ít phút, chuyến bay đầu tiên này gặp trở ngại kỹ thuật, phải đáp khẩn cấp xuống một ruộng lúa, làm thiệt mạng khoảng 150 người, trong đó có khoảng 80 trẻ em, và trên 30 nữ nhân viên DAO.

Để báo chí đỡ lên tiếng về kế hoạch di tản, ngày 16 tháng 4, Đại Sứ Martin ra lệnh cho một nhân viên thân tín của mình là John Hogan bí mật dàn xếp với CBS những chuyến “bay đen” (black airlift) bằng máy bay của Air America, trong mấy ngày kế tiếp, di tản khoảng 600 người Việt làm cho các hãng thông tấn ngoại quốc.

Ngoài việc làm thế nào mang hàng ngàn người Mỹ về nước một cách êm thấm, còn phải giải quyết vấn đề người Việt. Có bao nhiêu người sẽ ra đi, sẽ đến đâu, và định cư ở đâu? Vào giữa tháng Tư, tại Bạch Ốc, Tổng Thống Ford đã nói với một phái đoàn Quốc Hội là ngoài việc mang về hết công dân của mình, nước Mỹ còn có bổn phận phải lo cho những người Việt, con số này có thể lên tới 174.000 người. Sau đó, qua những điện văn giữa Washington và Sài Gòn, dự trù số người Việt ra đi là 200.000 người.

Có lẽ nhớ tới kinh nghiệm chế độ Tưởng Giới Thạch di tản qua Đài Loan năm 1949, lúc đầu Washington nghĩ tới di tản người Việt đến các đảo Côn Sơn và Phú Quốc. Nhưng khi thấy giải pháp này không ổn, Cộng Sản sẽ không để yên các đảo này sau khi họ làm chủ cả nước, Mỹ nghĩ tới việc di tản người Việt sang Thái Lan, nhưng cũng thấy không xong, sợ chính quyền mới của Thái chống đối. Trong khi ấy, Đài Loan cho biết sẵn sàng nhận rất nhiều người, với điều kiện mang cả vũ khí, máy bay, tầu thuỷ tới. Kissinger sợ mất lòng Trung Cộng, giải pháp này cũng không được.

Cuối cùng, Washington nhờ quân đội tình nguyện giúp đỡ. Xong ngay!
 
Vị trí tầu Mỹ sẵn sàng chờ đợi ngoài khơi Vũng Tầu

Tất cả nỗ lực di tản và vớt người ngoài biển do “Đặc nhiệm 76” (Task Force ‘76) phụ trách, dưới quyền chỉ huy của Đô Đốc Donald Whitmire.

Ngày 5 tháng 4, Tư Lệnh Thái Bình Dương (CinCPac–Commander in chief, Pacific) cử Phó Đô Đốc Hugh Benton làm đại diện tại Sài Gòn, chịu trách nhiệm toàn diện về cuộc di tản khỏi Nam VN, chuẩn bị cuộc đón ngoài biển dự trù có thể lên tới hai trăm ngàn người.

Ngày 17 tháng 4, 75, Lữ Đoàn 9 Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, căn cứ ở đảo Okinawa, Nhật, được lệnh thành lập Lực lượng Thuỷ bộ An ninh Di tản (AESF –Amphibious Evacuation Security Force). Lực lượng này được lệnh lên đường ngay, tới Vịnh Subic (Phi), tập hợp nhân sự cùng phương tiện cần thiết, tới đợi sẵn ở bờ biển Việt Nam. Nhân sự gồm 720 quân nhân TQLC, chia thành 14 toán, mỗi toán 54 người, phân chia đi các tầu vớt người tị nạn. Họ được huấn luyện rất kỹ, từ bí quyết nấu cơm cho hàng ngàn người ăn trong chốc lát — bằng cách cho gạo vào những bồn chứa lớn, rồi xịt hơi cực nóng từ hệ thống ống dẫn hơi nóng trên tầu, có cơm ngay trong mấy giây đồng hồ — đến những câu chào hỏi bằng tiếng Việt, cùng những điều nên và không nên trong cách giao tiếp với người tị nạn. Nhân viên an ninh và thông dịch viên được chú trọng hàng đầu.

Không Lực Mỹ tham dự Đặc nhiệm 76 bằng cách cử gần 10 trực thăng cỡ lớn từ Thái Lan, tới Đệ Thất Hạm Đội đợi cùng đoàn trực thăng của Không Lực Thuỷ quân Lục Chiến.
Trong khi ấy, bốn kế hoạch di tản được dự trù: đầu tiên bằng máy bay thương mại, thứ nhì là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thuỷ, cuối cùng là máy bay trực thăng bốc người ra Hạm Đội 7.

Kế hoạch đầu không thực hiện được.

Kế hoạch thứ nhì, chuyên chở bằng phi cơ vận tải quân sự C-130, bắt đầu từ ngày 21 tháng 4. Dân di tản được lén lút, qua mặt cảnh sát, đưa tới tập trung tại trụ sở DAO ở Tân Sơn Nhứt, rồi lên máy bay ra đi; cứ nửa tiếng một chuyến. Chỉ có thể hoạt động ban ngày, ban đêm giới nghiêm. Để có sẵn người đi cho những chuyến bay sớm, mỗi tối có khoảng từ 200 đến 600 người dự trữ cho hôm sau, ngủ tại các văn phòng ở DAO.

Về kế hoạch ba, có mấy tầu vận tải và xà lan đậu sẵn ở bến Tân Cảng, gần cầu xa lộ Sài Gòn – Biên Hoà. Kế hoạch này chỉ thi hành được một nửa. Cho đến 25 tháng 4, có hai chiếc chở nhân viên toà Đại Sứ cùng với thân nhân và những người quen thuộc, ra đi suông sẻ. Phần còn lại không thực hiện được trọn vẹn, vì ngày 29 tháng 4, khu Tân Cảng không còn đủ an ninh.

Kế hoạch bốn, trực thăng vận, bắt đầu chuẩn bị vào lúc Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức, tối 21 tháng 4: Xếp đặt 13 bãi đáp trên nóc nhà tại nhiều nơi ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Tất cả công việc như dựng ống gió, trang bị ánh sáng, bảng hiệu và máy truyền tin… đều làm ban đêm, tránh người dân hoang mang. Các quân nhân TQLC phải mặc thường phục, để khỏi lộ liễu vi phạm Hiệp định Hoà Bình Paris – quy định không được có trên 50 quân nhân Mỹ có mặt tại VN.

Tối 25 tháng 4, Tổng Thống Thiệu âm thầm đi Đài Loan, cũng là lúc các bãi đáp đã hoàn tất, sẵn sàng để sử dụng. Nhưng vào lúc này, kế hoạch 2 – vận chuyển bằng máy bay có cánh cố định (fixed wing) – vẫn tiến hành. Các phi công của 70 trực thăng trên ba chiến hạm đậu cách Vũng Tầu vài chực cây số vẫn túc trực chờ lệnh. Lúc đầu phải ngồi sẵn trong trực thăng đợi. Sau vài ngày, được đợi bên ngoài.

Vào ngày chúng tôi ra tù, 26 tháng 4, tầu SS American Challenger đã tới cách Long Hải trong vòng 5 cây số, vớt dân di tản bằng thuyền.

Ngày 28, tuy không có xác nhận từ phía bên kia, Đại Sứ Mỹ Martin vẫn còn hy vọng vào thoả hiệp đình chiến trong ba ngày, và 30 ngày để thành lập chính phủ ba thành phần, khi đó, Mỹ và những người thân Mỹ sẽ ra đi trong trật tự. Bà Đại Sứ vẫn còn ở lại Sài Gòn, cây me trước toà đại sứ vẫn không bị chặt, để dư luận khỏi hoang mang.

Trong khi Đại Sứ Martin muốn giữ tại chỗ đồ trang bị quân đội để Sài Gòn “làm vốn” thương thuyết với Cộng Sản, ông Erich Von Marbod, Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ có chủ trương khác. Ngày 28, ông ra lệnh cho người phụ tá là Richard Armitage tới phi trường Biên Hoà, cho một số phi cơ bay đi Cần Thơ và Thái Lan, và mang đi những quân dụng giá trị, rồi định bỏ bom phá huỷ những gì còn lại ở đây. Nhưng không kịp, tin tình báo cho biết VC đã vây Biên Hoà, Armitage bị gọi trở lại Sài Gòn, để tránh nguy hiểm.

Không hoàn thành được kế hoạch đối với không quân tại Biên Hoà, Armitage được lệnh tìm cách đưa cả hạm đội Hải Quân VNCH rời Việt Nam.

Chiều 28 tháng 4, trong khi diễn ra lễ trao quyền từ Tổng Thống Trần Văn Hương cho Đại Tướng Dương Văn Minh ở Dinh độc Lập, có hàng ngàn người kéo tới Tân Sơn Nhứt để được ra đi. Đây là những người thạo tin, qua quen biết hay một đường giây bí mật nào đó, biết được Trung Tâm điều hành di tản đang chuẩn bị một cuộc ra đi khổng lồ cuối cùng bẳng máy bay có cánh cố định vào đêm hôm đó.

Ngay sau lễ trao quyền, khoảng 6 giờ chiều, 5 máy bay phản lực chiến đấu A-37s cộng sản lấy được từ VNCH khi chiếm miền Trung, do phi công Nguyễn Thành Trung – người đã bỏ bom dinh Độc Lập ngày 8/4 – dẫn đầu, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt. Các chuyến bay di tản bị gián đoạn.

Lúc 10 giờ đêm, tin loan báo các chuyến đi tái tục vào lúc 11 giờ rưỡi, sẽ có từ 50 đến 60 chuyến bay, chở khoảng trên mười ngàn người. Đợi đến sau nửa đêm, lại có tin giờ khởi hành lùi lại tới 3 giờ rưỡi sáng. Khoảng từ 3 giờ đến 3 giờ rưỡi có ba chếc C-130 tới. Theo dự trù, đó là những máy bay trống, tới đón người. Nhưng không hiểu do đâu, mỗi chiếc chở tới một trái bom BLU-82 khổng lồ. Các quân nhân VNCH phải bỏ ra gần nửa tiếng, thận trọng mang ba trái bom xuống, mỗi trái nặng 15 ngàn cân.

Chỉ ít lâu sau, chính xác vào lúc 3:58 phút sáng 29 tháng 4, Cộng quân tấn công Tân Sơn Nhứt bằng hoả tiễn. Một trong hai trái loạt đầu trúng trạm canh ở cổng DAO, hai hạ sĩ quan TQLC Charles McMahon và Darwin Judge thiệt mạng. Đây là hai quân nhân Mỹ cuối cùng thiệt mạng trong cuộc chiến Việt Nam, xác của họ đã bị bỏ quên tại bệnh viện Seventh Day Adventis gần Tân Sơn Nhứt. Một năm sau, Nghị Sĩ Ted Kennedy can thiệp mang về. Một trong ba máy bay mới đến trúng hoả tiễn, bị phá huỷ. Hai chiếc kia vội cất cánh bay đi, không mang theo người nào, ngoại trừ phi hành đoàn của chiếc bị nạn.

Sau vụ tấn công này, nhiều phi công Việt Nam được lệnh lái máy bay sang Thái Lan. Theo tin New York Times ngày 30 tháng 4, 1975, có 74 máy bay từ Sài Gòn đã chở 2.000 người bay qua Thái Lan.

Trong lúc vội vã, nhiều phi công trút bỏ bom đạn và bình xăng phụ khi ra đi, khiến đường băng trở thành nguy hiểm. Tướng Smith, Tuỳ viên Quốc Phòng Mỹ khuyên Đại sứ Martin bỏ kế hoạch thứ nhì — di tản bằng máy bay có cánh cố định – chuyển sang kế hoạch 4, trực thăng vận. Từng là một Đại Tá Không Quân, Đại Sứ Mỹ tới Tân Sơn Nhứt, tận mắt quan sát tình hình rồi mới quyết định. Theo ông nói lại sau này, đường băng có thể làm sạch trong nửa tiếng, nhưng phải dựa vào phía Việt Nam bảo vệ an ninh để các chuyến bay có thể tái tục. Trong khi ấy, cấp chỉ huy phía Việt Nam không còn ai, máy bay đáp xuống chở người tị nạn có thể bị tràn ngập. Do đó, ông đã chấp nhận đề nghị của Tướng Smith. Đồng thời, ông gọi cho Ngoại Trưởng Kissinger, chính thức từ bỏ quyền chỉ huy cuộc di tản. 20 phút sau, chương trình di tản biến thành một chiến dịch quân sự.

Operation Frequent Wind

Ngày 29 tháng 4, 10:51 sáng, cuộc di tản chính thức bắt đầu bằng Chiến Dịch Năng Phong (Operation Frequent Wind). Vì việc chỉ huy chiến dịch thiếu phối hợp chặt chẽ — giữa Hải Quân và TQLC, cũng như giữa Không Quân và Không lực TQLC – khiến giờ chính thức khởi hành chậm 3 tiếng, thực sự bắt đầu lức 3:15 chiều.
 
Vượt qua tường rào Toà Đại Sứ, vẫn còn chờ đợi quanh hồ bơi trong sân sau

Chiến dịch bắt đầu, cũng là lúc TQLC khởi đầu bốc người tại các địa điểm tập trung, bằng trực thăng nhỏ của hãng Air America và xe buýt, chở vào trụ sở DAO ở Tân Sơn Nhứt, rồi chở bằng trực thăng lớn (CH 53 & CH 46) ra Đệ Thất Hạm Đội. Ngoài 13 địa điểm bốc bằng trực thăng trên nóc nhà, còn 3 tuyến đường xe buýt. Mỗi xe buýt đều có xe giả Cảnh sát VN dẫn đường. Trong ngày 29 tháng 4, những xe buýt này đã đi tới ba vòng, đón hết thường dân Mỹ, và những người bạn Việt, hoặc ngoại kiều khác, kể cả con chó của ông đại Sứ. Lúc đầu, dự trù những người có mặt tại Toà Đại Sứ cũng được bốc về DAO. Sau đổi lại, có hai đường bay thẳng ra biển: Từ DAO và từ Toà Đại Sứ. Tới khoảng nửa đêm 29 tháng 4, tất cả những người tới DAO đều được chở đi hết. Nửa giờ bước sang ngày 30 tháng 4, trong khi hai chiếc CH-53 bốc lên từ bãi đậu xe, những lựu đạn toả nhiệt (thermite grenades) gắn sẵn tại những địa điểm chủ yếu của trụ sở DAO được kích động, cả cơ sở sụm xuống, chấm dứt vai trò “Lầu 5 góc miền Đông” (Pentagon East).

Tại Toà Đại Sứ, khi các chuyến bay chở người tị nạn chấm dứt vào khoảng 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4, còn khoảng trên dưới 400 người kẹt lại trong sân, và hàng ngàn người vẫn chờ đợi bên ngoài. Đại Sứ Martin, sau khi cố trì hoãn để mang đi càng nhiều người càng tốt, đã hạ cờ Mỹ, gấp lại mang theo, ra đi lức 4:58 phút. Chuyến bay cuối cùng từ nóc Toà Đại Sứ chở 10 TQLC cất cánh lúc 7:58 sáng 30 tháng 4.

Tấm hình quen thuộc với thế giới mấy chục năm qua, chụp hàng người leo thang lên chiếc trực thăng đợi trên nóc nhà, không phải tại Toà Đại Sứ như nhiều người tưởng lầm, mà tại một trạm CIA ở 22 đường Gia Long.
http://www.damau.org/wp-content/uploads/2015/02/clip_image007_thumb.jpg
Chiều 29 tháng 4, điệp viên Cộng Sản Phạm Xuân Ẩn đã chở Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ Đệ Nhất VNCH tới kịp chuyến bay cuối cùng tại địa điểm này.

Tuy căn cứ vào những gì do người trong cuộc kể lại, cũng vẫn khó nắm bắt sự thật. Ví dụ, vào ngày 29 tháng 4, 1975, cả ba người cùng có mặt tại Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, từ khi E-day chính thức bắt đầu cho đến khi chấm dứt, là Đại Sứ Graham Martin, trách nhiệm toàn diện cuộc di tản; Phó Đại Sứ Wolfgang Lehmann, trực tiếp điều khiển di tản; và Đại Uý Stuart Herrington, xếp người lên trực thăng. Nhưng khi nói về số người bị kẹt lại sau khi chấm dứt các chuyến bay, theo ông Đại Sứ: khoảng 400 người; theo Phó Đại Sứ: chỉ có 250 người; theo Đại Uý Herrington: 420 người.

Cuối ngày 29 tháng 4, tại DAO, cùng với những hồ sơ quan trọng không mang đi được, TQLC đã đốt 13 triệu đô-la, là tiền dự trù phát lương vào đầu tháng Năm. Tại Toà Đại Sứ cũng đốt khoảng 1 triệu, ngay tại nơi gần bãi đáp trực thăng trên sân thượng, khói bốc lên, phát sinh tin đồn Toà Đại Sứ bị cháy.

Ngoài những hoạt động di tản tại DAO và Toà Đại Sứ ở Sài Gòn vào cuối tháng 4, cũng nên ghi lại hoạt động tại các Toà Tổng Lãnh Sự ở Biên Hoà, và Cần Thơ.

Tổng Lãnh Sự Richard Peters ra lệnh đóng cửa Lãnh Sự Quán Biên Hoà từ ngày 24 tháng 4, nhưng cờ Mỹ vẫn còn bay cho đến vài hôm sau. Khi hy vọng thương thuyết giữa chính quyền VNCH và Cộng Sản không còn, Phó Tổng Lãnh Sự và hai quân nhân TQLC trở lại hạ cờ.

Trong bài phỏng vấn dành cho ông Ted Mundorff, chủ nhân Landmark Theatres ở Washington DC vào dịp trình chiếu cuốn phim tài liệu Last Days in Vietnam, hồi tháng Mười 2014, đạo diễn phim này là Rory Kennedy nói ông Tổng Lãnh Sự Cần Thơ, vào ngày chót, chỉ được cấp 2 trực thăng, không đủ để chở 400 nhân viên và thân nhân người Việt, nên vì tinh thần trách nhiệm và lòng nhân đạo, đã bỏ tiền riêng mua hai chiếc tầu, chở tất cả mọi người ra biển an toàn, mặc dầu bị hải quân VN làm khó, và Việt Cộng tấn công.

Tuy nhiên, theo tài liệu của TQLC Mỹ, câu truyện không diễn ra như thế. Cần Thơ chuẩn bị di tản bằng cả ba phương tiện: máy bay, trực thăng, và tầu. Phương tiện đầu tiên không thực hiện được, vì chỉ huy trưởng phi trường Cần Thơ không bảo đảm an ninh. Theo ông, ngay khi chuyến bay đầu tiên hạ cánh, sẽ bị tràn ngập. Về trực thăng, ngày 29 tháng 4, Sài Gòn chỉ cho 4 chiếc, nhưng CIA đã dành 2, không đủ cho nhân viên và thân nhân, tất cả lên tới hơn 300 người, nên phải chọn giải pháp cuối: xử dụng hai trong số bốn chiếc tầu LCM do Tổng Lãnh Sự Quán đã mua từ trước của hãng Alaska Barge and Transport Co. Nhưng chiếc thứ nhì không có người lái. Cuối cùng, chính Tổng Lãnh Sự Francis McNamara, vốn là một sĩ quan Hải Quân, đóng vai pilot. Từ Cần Thơ ra biển, khoảng 100 cây số, phải qua một khúc sông hẹp, khó tránh khỏi bị Việt Cộng tấn công. Đúng chỗ nguy hiểm, nhờ một trận mưa rất lớn, trời đất mù mịt, tầu thoát ra biển an toàn.

Trong khoảng thời gian từ 21 đến 28 tháng 4, trước khi kế hoạch di chuyển bằng máy bay cánh cố định bị huỷ bỏ, Mỹ đã bốc ra khỏi VN 42.910 người qua 170 chuyến bay bằng các phi cơ vận tải C-130, 134 và C-141, đưa tới Căn Cứ Không Quân Clark ở Phi, một số nhỏ được đưa thẳng tới Guam. Nhân viên của các đài phát thanh bí mật, được chở ra đảo Phú Quốc, rồi ít ngày sau được bốc đi.

Trong Chiến Dịch Frequent Wind ngày 29 tháng 4 trực thăng vận, từ Toà Đại Sứ bốc 978 người Mỹ, 1.120 người Việt cùng công dân các nước khác. Từ DAO bốc 395 người Mỹ và 4.475 người tị nạn.

Ngoài những chuyến trực thăng do Mỹ bốc, còn rất nhiều phi công VN đã đi một mình hoạc chở người thân bay thẳng ra Đệ Thất Hạm Đội. Tướng Kỳ chở Tướng Trưởng đã đáp xướng mẫu hạm Midway rất sớm, vào sau buổi trưa 29-4. Vì thiếu chỗ đậu, trên 30 trực thăng nhỏ Huey đã bị đẩy xuống biển.

Tại một địa điểm gần Vũng Tầu hơn, khu trục hạm USS Kirk đối phó với một trường hợp có thể gây đứng tim nhiều người: Phi công Đại Uý Nguyễn Văn Ba lái chiếc trực thăng khổng lồ CH-47, chở vợ và các con, không còn đủ nhiên liệu để bay xa hơn, và quá lớn, nếu đáp xuống có thể đánh chìm tầu Kirk. Cuối cùng, ông đã quần trên tầu, cho vợ con nhảy xuống, để các bàn tay thuỷ thủ đỡ lấy, trước khi cho chiếc trực thăng lật ngửa trên biển, cùng lúc phóng qua cửa, rồi lặn xuống, bơi ra xa, thoát hiểm. Cảnh căng thẳng ngoạn mục này đã trở thành điểm thu hút chính trong cuốn phim tài liệu “Last Days in Vietnam” được đề cử giải Oscar năm nay.

Trong 4 ngày cuối tháng 4, Mỹ đã xử dụng 45 tầu Hải Quân, từ mẫu hạm, chiến hạm, tầu vận tải, tới các tầu nhỏ, vớt tổng cộng 40.000 người. Tổng cộng cả tháng 4, Đệ Thất Hạm Đội và TQLC vớt khoảng 130.000 người. Lúc đầu, họ được cho tạm trú tại đảo Grande Island ở Subic Bay, nhưng chính quyền Phi không cho phép người tị nạn được ở lại trạm dừng chân quá 72 giờ. Ngày 28 tháng 4, Quốc Hội Mỹ chính thức cho phép người tị nạn vào Mỹ tại 3 nơi: Camp Pendleton, CA; Eglin Air Force Base, FL; Fort Chaffee, Arkansas. Sau mở thêm Camp Indiantown Gap, PA., vào đầu tháng Sáu.

Trong khi Mỹ đóng vai chủ động các ngày 28 và 29 tháng 4, phía VNCH làm gì?

Ngày 27, một số nhân vật trọng yếu trong chính quyền, gồm cả cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn và người đứng đầu cơ quan Cảnh Sát, được Mỹ chở sang Philippines.

Ngày 28 tháng 4, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng từ chức, mặc thường phục ra đi trên máy bay Mỹ, Tướng Khuyên được chỉ định tạm thay, nhưng Quân Lực VNCH coi như không còn cấp chỉ huy.

Về phía Không Quân VNCH, sau đây là lời của Trung Tướng Tư Lệnh Trần Văn Minh, kể trong cuộc phỏng vấn tại nhà ông, do Blogger LDE thực hiện, đăng trước tiên trên Washington Post, rồi trên San Jose Mercury News vào tháng 4, 1985, và trên Blog lde421.blogspot.com/2012/12 :

Ngày 29 tháng Tư, gần buổi trưa, DAO gọi tôi nói rằng sắp có một cuộc họp giữa Hoa Kỳ và các cấp chỉ huy của Không Lục VNCH. Tôi tới DAO với nhiều người của tôi. Chúng tôi được mời vào một căn phòng. Rồi họ bỏ mặc chúng tôi ở đấy khá lâu. Chúng tôi đã nghĩ rằng Đại Sứ Martin hay Tướng Homer Smith (Tuỳ viên Quốc phòng) hoặc nhân vật nào khác sẽ đến với kế hoạch mới để phản công Bắc Việt. Nhưng họ không bao giờ tới. Chẳng có ai tới cho đến lúc xế chiều. Sau khi chúng tôi vào cơ sở (DAO) họ cho một lính gác lấy võ khí chúng tôi. Chuyện này chưa bao giờ có trước đây.

Rồi cuối cùng, một sĩ quan tiến vào phòng, nói: “Chung cuộc rồi, thưa Tướng Minh. Một trực thăng đang đợi bên ngoài đưa quý vị ra đi”. Chúng tôi đi ra, lên trực thăng. Chúng tôi được chở tới Blue Ridge (Soái hạm Đệ Thất Hạm Đội) trên biển Nam Hải.

Một Đại Tá Không Quân Mỹ trên trực thăng với chúng tôi. Ông ấy ngồi cạnh tôi. Ông khóc suốt chuyến bay, đến nỗi không nói được. Nhưng ông ấy viết gì đó trên mảnh giấy và đưa cho tôi. Tôi đọc, “Thưa Tướng Công, tôi rất tiếc”. Tôi vẫn còn mảnh giấy đó. Tôi sẽ giữ nó đến mãn đời, tôi không bao giờ quên chuyến bay buồn thảm tới Blue Ridge.

(coi tiếp phần III)










No comments:

Post a Comment

View My Stats