Tom Fawthrop(*)
The
Diplomat, 26.8.2019
Tôn
Thất Thông dịch
27/08/2019
Hạn hán năm nay chỉ là một bản dạo đầu
của các vấn đề nghiêm trọng hơn sẽ xảy ra
nếu nhà nước không thay đổi chính sách
Dân địa phương nhìn
mực nước thấp ở Tonle Sap tháng 7.2019 . Nguồn:
The Diplomat
Sông Mê Kông đang quay cuồng với sự tấn công của biến
đổi khí hậu, khai thác cát và xây đập không ngừng, chúng tổng hợp lại đã tạo
nên vụ hạn hán vào tháng Bảy, được xem là tồi tệ nhất ghi nhận trong hơn 100
năm qua.
“Đây là thảm họa sinh thái tệ hại nhất trong lịch
sử khu vực sông Mê Kông”, chuyên gia tài nguyên thiên nhiên Thái Lan
Chainarong Setthachua tuyên bố.
Mực nước ở hồ Tonle Sap, Campuchia, hồ nước nội địa
to lớn, “nhịp tim đập để điều hòa sông Mê Kông”, đã bị giảm xuống mức thấp
chưa từng có tiền lệ, đến nổi có ngôi làng chài trên nước hoàn toàn bị biến mất.
Hầu như không thể tin được đối với người dân địa phương Tonle Sap, vì điều này
xảy ra không phải vào mùa khô, mà đã hai tháng trong mùa mưa.
Youk Sengleng, một chuyên gia thủy sản NGO hoạt động
ở vùng Tonle Sap, đã chia sẻ những quan sát của mình: “Nhiều cá chết vì nước
cạn, nhiệt độ nóng và nước độc hại do thiếu oxy. Khoảng 2,5 triệu người sống phụ
thuộc vào hồ với nghề đánh cá đã bị ảnh hưởng trực tiếp”.
Lấy quá nhiều nước từ một con sông về cơ bản sẽ hút
sự sống ra khỏi nó. Các chất ô nhiễm trở nên đậm đặc hơn và nước chảy chậm lại,
dẫn đến sự tích tụ các trầm tích làm tắc nghẽn lòng sông.
Trong một mùa mưa bình thường, hồ Tonle Sap mở rộng
kích thước của nó lên hơn 40 phần trăm nhờ mực nước dâng cao 7-8 mét ở sông Mê
Kông sau những cơn mưa dầm lớn. Hiện tượng “xung lũ” tuyệt vời này thường xảy
ra vào giữa cuối tháng 8 và giữa tháng 9, qua đó, nhánh sông Tonle như một nguồn
dự trữ, đưa nước sông Mê Kông đổ về hồ lớn.
Một đám mây nặng nề của sự lo lắng và vô định đang
treo trên số phận của dòng sông. Tình trạng của nó thay đổi hàng năm, nhưng hiếm
khi có xung lũ giảm mạnh như vậy. Nó đã quá yếu để hỗ trợ nghề nuôi cá và bảo đảm
lương thực để nuôi sống 60 triệu người đang sinh sống ở hạ lưu sông Mê Kông.
Ngay cả khi cuối cùng, dòng sông có thể hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng của
các vị Thần Angkor để thay đổi tình trạng tồi tệ đó, sự khan hiếm cá và thiếu
protein vẫn còn tồn tại đến năm thứ một triệu, cho đến khi lượng cá hiện thời
được hồi phục.
Ian Cowx, giám đốc Viện Thủy sản Quốc tế Hull thuộc
Đại học Hull ở Anh (HIFI: Hull International Fisheries Institute), giải thích rằng
trở ngại lâu dài lớn nhất đối với sự phục hồi của nghề thủy sản không phải là sự
biến đổi khí hậu và hạn hán này, mà là từ các con đập ở thượng nguồn.
Theo nghiên cứu của HIFI, “tất cả các loài cá đều
thích nghi với chu kỳ hạn hán và lũ lụt” và yếu tố khí hậu không gây ra
nguy cơ tuyệt chủng. “Vấn đề lớn ở đây là liệu các hoạt động khác như điều
tiết dòng chảy và hiệu ứng rào cản gây ra bởi thủy điện, chất ô nhiễm và khai
thác trầm tích có làm hủy hoại môi trường sống và làm tăng nguy cơ tuyệt chủng
hay không”, theo Cowx. “Có lẽ vấn đề lớn nhất ở đây là dòng chảy giảm
sút do những con đập ở Trung Quốc, đập Lower Sesan 2 [trên một nhánh
sông Mê Kông ở Campuchia] và mất hẳn kênh Hou Sahong vì đập Don Sahong”.
Thêm vào đó, đập Xayaburi, con đập đầu tiên được xây
dựng và gần như hoàn thành ở hạ lưu sông Mê Kông, là một thí dụ khác về dự đoán
thiệt hại lâu dài cho hệ sinh thái, lớn hơn nhiều so với vấn đề tạm thời hao hụt
nguồn nước.
Lý do chính khiến mực nước hạ thấp ở sông Mê Kông
vào tháng 7 năm nay là do thiếu mưa, nhưng hoạt động tại đập Jinghong ở Trung
Quốc và đập Xayaburi khổng lồ sắp xây xong ở Lào, cũng liên quan đến việc làm
cho cuộc khủng hoảng nước trầm trọng thêm. Trung Quốc đã quyết định “tắt vòi nước
sông Mê Kông” từ Jinghong với lý do họ phải tiến hành “bảo trì lưới điện”.
Đồng thời, các nhà phê bình cũng xác định rằng đập
Xayaburi là thủ phạm tham gia vào các thử nghiệm đặc biệt đã đóng cửa ngăn lũ lụt.
Điều đó càng tăng nổi giận giữ của người nông dân Thái Lan sống ở tỉnh Chiang
Rai, hơn 220 km về phía hạ lưu.
Trong khi công ty xây dựng đập Thái Lan CK Karnchang
từ chối mọi trách nhiệm đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nước, các tổ chức
phi chính phủ Thái Lan đã kiến nghị lên Tòa
án Hành chính Thái Lan, yêu cầu EGAT, Ủy ban Điện lực Thái Lan, trì hoãn việc
mua điện từ đập Xayaburi, chờ điều tra thêm về vai trò thủ phạm tiềm năng của
nó trong vụ hạn hán bất hợp lý. Vụ kiện này có thể trì hoãn việc khánh thành
con đập dự kiến vào tháng 10 này.
Mọi thứ đang thay đổi dọc theo sông Mê Kông. Hạn hán
đang gia tăng; tài nguyên nước đang giảm. Sự phong phú của nghề thủy sản và đa
dạng sinh học đang bị đe dọa cả từ biến đổi khí hậu và sự xây dựng đập bừa bãi
thiếu kiểm soát dọc theo sông.
Chainarong, người giảng dạy ngành sinh thái chính trị
và quản lý tài nguyên thiên nhiên tại Đại học Maha Sarakham, khẳng định rằng, “hôm
nay chúng ta có thể thấy từ trường hợp các đập Trung Quốc ở thượng nguồn và đập
Xayaburi [Lào] rằng, chính phủ các nước trên giòng sông Mê
Kông và chính sách của họ đã tạo ra một thảm họa sinh thái ở lưu vực sông lớn
nhất trong khu vực”.
Nhưng bất chấp những cảnh báo khoa học khác nhau về
sự xuống dốc nghiêm trọng của Mê Kông, các nhà hoạch định chính sách và chính
phủ đã không chú ý đến các yêu cầu của xã hội dân sự nhằm áp đặt các biện pháp
kiểm soát môi trường qui mô hơn để bảo vệ con sông Mê Kông đang bị uy hiếp.
Một cảnh báo quan trọng đã được đưa ra bởi Ủy ban
sông Mê Kông (MRC: Mekong River Commission), bao gồm bốn quốc gia thành viên:
Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. MRC chính thức công bố vào năm 2018 báo
cáo Nghiên cứu của Hội đồng về tác động của thủy điện. Một trong số nhiều kết
luận đáng báo động là, khối lượng sinh thái cá sẽ giảm 35-40% vào năm 2020. Hơn
nữa, báo cáo cảnh báo rằng phát triển thủy điện đến năm 2040 sẽ hủy hoại khả
năng cá di chuyển ở phần lớn các vùng của sông Mê Kông. Không có loài cá nào
trên sông Mê Kông có thể sống sót trong các hồ chứa của các đập sẽ được xây dựng
vào năm 2020 và 2040.
Theo kết quả của các cơ quan thủy sản MRC đã báo
cáo, giá trị của nghề thủy sản sông Mê Kông – nghề thủy sản nước ngọt lớn nhất
thế giới – đạt mức 11 tỷ đô la trong việc đánh bắt tự nhiên (chưa kể các trang
trại cá) cho các nước MRC, các nhà quan sát có thể chờ đợi một cách hợp lý về
viễn cảnh thảm khốc của tình trạng cá bị tuyệt chủng.
Tuy nhiên, ba trong số bốn quốc gia thành viên –
Lào, Thái Lan và Campuchia – đã bất ngờ từ chối chấp nhận tài liệu mang tính
chiến lược này vốn đã dựa trên năm năm nghiên cứu, và họ cũng ít bày tỏ mong muốn
tranh luận về báo cáo. Chỉ có Việt Nam hoan nghênh và tán thành báo cáo.
“Chính phủ các nước Mê Kông thực sự cần thức tỉnh
trước các báo động của những năm gần đây và cần bắt đầu làm việc cùng nhau vì lợi
ích chung”, nhà sinh thái học vùng ngập nước, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Thiện, người
đã làm việc trên một số báo cáo quốc tế về Mekong với tư cách là cố vấn cho WWF
và ICEM, khẩn thiết kêu gọi.
Trong một cuộc phỏng vấn với Thiện ở Cần Thơ, ông đã
bày tỏ mối quan ngại lâu dài của mình đối với quốc gia trong tương lai: “Vùng
tam giác [Mê Kông Delta] đang chìm vì hầu hết các trầm tích
giàu chất dinh dưỡng quan trọng để bổ sung cho đồng bằng bị kẹt ở thượng nguồn
bởi các con đập. Điều này gây ra suy thoái môi trường ở quy mô lớn và cũng liên
quan đến sự mất ổn định và căng thẳng trong khu vực. Trong tương lai, vùng tam
giác sẽ không còn có thể duy trì 18 triệu dân. Họ sẽ phải chạy trốn như những
người di cư và tị nạn. Thủy điện ở khu vực sông Mê Kông đang gieo mầm cho sự bất
ổn của khu vực và nó có thể trở thành một vấn đề an ninh khu vực”.
Nghiên cứu mới được công bố bởi Viện Môi trường
Stockholm (Stockolm Environment Institute) vào năm 2018 cho thấy, 96% trầm tích
giàu chất dinh dưỡng của sông Mê Kông sẽ không bao giờ đến được vùng đồng bằng
tam giác, nếu tất cả 11 đập theo kế hoạch dự kiến được xây dựng ở Hạ lưu sông
Mê Kông.
Nếu việc xây đập ở thượng nguồn và suy thoái môi trường
dẫn đến việc Việt Nam “mất” vùng đồng bằng, điều đó có nghĩa là mất nguồn chính
về gạo, trái cây và rau quả, tổng số chiếm gần 25% GDP. Tiến sĩ Thiện tự hỏi, “nếu
về lâu dài, không có đồng bằng, Việt Nam có thể tồn tại như một quốc gia?”
Khi việc ngăn đập có thể dừng lại, chủ tịch về tài
nguyên nước của WWF, Marc Goichot giải thích rằng điều đó sẽ có nhiều lợi ích
cho dòng sông: “Việc giữ cho dòng sông ở hạ lưu chảy tự do sẽ khiến khoảng
28 triệu người ở Campuchia và Việt Nam sống vững chãi hơn với thảm họa khí hậu
và nước, đồng thời cải thiện sự ổn định thực phẩm”.
Hy vọng đang tăng lên, khi các đập thủy điện có thể
sớm bị coi là lỗi thời so với năng lượng tái tạo từ mặt trời và gió vốn đang bắt
đầu phát triển trong khu vực. Nhà phân tích năng lượng của Mekong, Brian Eyler,
giám đốc Trung tâm nghiên cứu Stimson có trụ sở tại Hoa Kỳ tin rằng các quốc
gia MRC đang bắt đầu khai thác năng lượng tái tạo và cuối cùng sẽ chuyển hướng
ra khỏi thủy điện. Ông nói, “Nhiều chuyện đã được thay đổi, kể từ khi đập
Xayaburi bắt đầu xây dựng vào năm 2012. Tôi chắc chắn rằng một số quan chức của
chính phủ Thái Lan, sẽ lấy làm tiếc khi thấy đập Xayburi (được tài trợ bởi Thái
Lan) là một dự án hoàn toàn không cần thiết”.
Ước mơ ban đầu của Thỏa thuận MRC 1995 là một dòng
sông có sự hợp tác quốc tế và chia sẻ công bằng tài nguyên nước. Nhưng Tiến sĩ
Trần Đình Thiên, Giám đốc Học viện Kinh tế Hà Nội, phát biểu tại một Diễn đàn
Mê Kông vài năm trước, than thở rằng ước mơ đó không đạt được theo cách mà nó
đang được giải quyết. “Chúng ta chỉ có thể cứu sông Mê Kông bằng cách loại bỏ
tâm lý hẹp hòi theo kiểu ‘ao nhà’ để kiếm lợi nhuận [từ mỗi phân khúc
có chủ quyền quốc gia trên dòng sông] nhân danh sự phát triển”.
Một số nhà bình luận bi quan có thể cho rằng đã quá
muộn để cứ loanh quanh với các vấn đề, mà cần vạch ra một con đường mới và bền
vững hơn cho sông Mê Kông. Tuy thế, vào thời điểm mà tình trạng của sông Mê
Kông đang bị đe dọa nguy hiểm chưa từng có, học giả Chainarong người Thái Lan
thuyết phục hơn: “Không phải là quá muộn khi bảo vệ dòng sông bằng cách ngăn
chặn tất cả các dự án đập đang nằm trong danh sách, và phát triển một chính
sách khác cho Mê Kông dựa trên việc tuân thủ các qui định của Ủy ban Đập Thế giới
và sự tham gia đầy đủ của xã hội dân sự và cộng đồng dân cư ở ven sông”.
Chain Chainarong nói tiếp: “Tất cả các chính phủ
của Mê Kông nên hợp tác để ngăn chặn tác động xấu nhất của thiên tai, thiệt hại
sinh thái và cướp bóc tài nguyên thiên nhiên bằng một chính sách khác về Mê
Kông, trên cơ sở cân bằng giữa bảo vệ môi trường và phát triển quốc gia”.
__________________________________
(*) Tom Fawthrop là một
nhà báo và nhà làm phim tự do có trụ sở tại Đông Nam Á.
Bản
gốc tiếng Anh:
By Tom Fawthrop
August 26, 2019
No comments:
Post a Comment