30/08/2019
Khi năm 2019 đã bước sang nửa cuối, thị trường tiền
tệ và ngành ‘in tiền’ Việt Nam nhận được một tin tức có vẻ đáng lo ngại: Nhà
máy In tiền Quốc gia trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lỗ đến 11,2
tỉ đồng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, còn những năm trước chỉ toàn lãi và
lãi…
Từ ‘lỗ đột biến’…
Nhà máy In tiền Quốc gia có trụ sở tại quận Cầu Giấy,
Hà Nội. Từ năm 2010, nhà máy này được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang
mô hình công ty TNHH một thành viên với 100% vốn điều lệ được Ngân hàng
Nhà nước nắm giữ.
Ngành nghề kinh doanh chính của Nhà máy In tiền Quốc
gia là in, đúc tiền, sản xuất vàng miếng, vật phẩm, lưu niệm bằng vàng và các
loại giấy tờ có giá. Số lượng, doanh thu và chi phí từ hoạt động in đúc tiền của
Nhà máy In tiền Quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu tiền mặt trong nền
kinh tế, việc điều hành chính sách tiền tệ và theo kế hoạch do Thống đốc Ngân
hàng nhà nước giao.
Số lỗ hơn 11 tỷ đồng trong nửa đầu năm 2019 là đáng
thất vọng đối với cơ sở độc quyền về in tiền và được xem là không bao giờ lỗ. Bởi
cùng kỳ năm 2018, Nhà máy In tiền Quốc gia thu lợi nhuận sau thuế tới 60 tỷ.
Còn vào năm 2017, nhà máy này đã đạt lãi ròng 44 tỷ đồng.
Nếu nhìn vào báo cáo tài chính của Nhà máy In tiền
Quốc gia, có thể cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng lỗ sau 6 tháng đầu năm
2019 là do chi phí hoạt động tăng cao trong khi doanh thu từ việc sản xuất giảm
sút so với những năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm 2019, doanh thu tài chính của
Nhà máy In tiền Quốc gia thấp hơn cùng kỳ 7 tỷ, giảm còn 10 tỷ đồng.
Nhưng vì sao doanh thu năm 2019 của Nhà máy In tiền
Quốc gia bị sụt giảm?
Phải chăng do số lượng và doanh thu in tiền của Nhà
máy In tiền Quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu tiền mặt trong nền kinh tế
nên doanh thu sụt giảm là do nền kinh tế ‘bội thực’ với tiền mặt?
Giả thiết trên là hoàn toàn có cơ sở khi ‘trải nghiệm’
chiều dài dĩ vãng in tiền và in tiền bạt mạng của Nhà máy In tiền Quốc gia, dưới
sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và sự lãnh đạo của ít nhất hai đời thủ tướng
chính phủ từ Nguyễn Tấn Dũng đến Nguyễn Xuân Phúc.
Đến ‘lãi lạm phát’
Dù đến nay chính phủ và Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyệt
nhiên không chịu đả động, hoặc cố tình giấu kín động thái in tiền thông qua
công cụ Nhà máy In tiền Quốc gia, nhưng bản thân những con số dư nợ cho vay
trong hệ thống ngân hàng đã phản ánh cơ bản nguồn cơn “vì sao tiền đồng tràn ngập
thừa mứa trong ngân hàng”.
Vào năm 2008, tổng dư nợ cho vay của khối ngân hàng
là 2,3 triệu tỷ đồng, nhưng đến cuối năm 2018 đã lên đến 7,6 triệu tỷ đồng, tức
lượng tiền mặt hiện diện trên thị trường cho đến cuối năm 2018 đã gấp gần 3,5 lần
của 10 năm trước. Hẳn nhiên và tương ứng, lượng tiền được Ngân hàng Nhà nước
cho in và bổ sung vào lưu thông đã có thể vào khoảng 500.000 tỷ đồng mỗi năm, tức
phần “lạm phát in tiền” đã chiếm đến 10-15% hàng năm – một tỉ lệ in tiền rất
cao so với tỉ lệ in tiền bình quân của các nước phương Tây.
Cũng còn một cơ sở khác để đối chiếu: theo chính các
số liệu của Ngân hàng Nhà nước, mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán
hàng năm ở Việt Nam luôn tăng đến 14 - 16% mỗi năm.
(Tổng phương tiện thanh toán, còn gọi là M2, bao gồm
tổng lượng tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng, tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ
của dân cư, doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại).
Tính đến tháng 5/2019, số dư tổng phương tiện thanh
toán đã đạt đến quy mô 9.706.888 tỷ đồng (tăng 5,37% so với cuối năm 2018).
Quay ngược về tháng 12/2013, quy mô này chỉ ở mức 4.400.692 tỷ đồng. Tức sau 5
năm, số dư tổng phương tiện thanh toán đã tăng hơn 2 lần.
Đáng chú ý là tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng
phương tiện thanh toán của Việt Nam gần như không mấy thay đổi trong nhiều năm
qua, phổ biến chỉ xoay quanh mức 11,5%. Hiện tượng này đồng nghĩa với quy mô
tăng đều theo tổng phương tiện thanh toán hàng năm, tức khi tổng phương tiện
thanh toán tăng thì lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng theo.
Cũng có nghĩa là sau 5 năm, khi số dư tổng phương tiện
thanh toán đã tăng hơn 2 lần thì lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng gấp
hơn 2 lần.
Tiền mặt trong lưu thông tăng lại dẫn đến lạm phát.
Chỉ xét theo số liệu về tổng phương tiện thanh toán trong giai đoạn 2013 - 2018
của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ lạm phát hàng năm đã lên đến khoảng 15%. Con số
này là hoàn toàn trái ngược với các báo cáo mắt nhắm mắt mở và tô hồng vô liêm
sỉ của Chính phủ về số liệu lạm phát chỉ dưới 5% hoặc dưới 4% hàng năm.
Hẳn đó là nguyên do khiến trong khi Nhà máy In tiền
Quốc gia đột biến lợi nhuận trong những năm trước, giới cán bộ hưu trí lại thường
phản ánh nhận được lương hưu với nhiều tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng, mới cứng
và chắc chắn chưa được lưu hành ngoài thị trường.
Không chỉ giới hưu trí và công chức, những người thường
xuyên giao dịch tại các ngân hàng thương mại cũng rất thường chứng kiến cảnh
nhiều xe chở tiền mới cứng được đưa tới các ngân hàng.
Còn tại nhiều chợ đầu mối ở Sài Gòn và Hà Nội, giá
thịt thà và rau củ cứ tăng đều đặn 30-40% mỗi năm, chưa kể tăng gấp đôi vào những
sự kiện tăng lương, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện hay tăng giá đô la…, tạo
nên một nghịch lý rất lớn hiện hình trong nội tình ngân sách và hệ thống ngân
hàng Việt Nam: tiền đồng thừa ứ và đang “kiến tạo” lạm phát dần phi mã đã góp
thêm một kích thích tố đẩy lạm phát tăng vọt khiến dân tình càng thêm xác xơ.
“Tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế” (!?)
Vào năm 2019, có một vụ việc mà đã suýt chút nữa khiến
Việt Nam lọt vào ‘danh sách các nước thao túng tiền tệ’ của Hoa Kỳ: do nóng ruột
muốn gia tăng Quỹ dự trữ ngoại hối để có ngoại tệ trả nợ nước ngoài cùng khoe
khoang thành tích chính trị nhằm chạy đua đến đại hội 13, chính phủ của thủ tướng
‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước ồ ạt tung tiền Việt
để thu gom USD trôi nổi trên thị trường. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2019, núi tiền
lên đến hơn 200 ngàn tỷ đồng được tung ra lưu thông đã thu lại khoảng 8,5 tỷ
USD, tạo nên thành tích chưa từng có của Quỹ dự trữ ngoại hối là có đến hơn 65
tỷ USD. Thế nhưng số ngoại tệ 8,5 tỷ USD gom được lại vượt hơn hẳn điều kiện
không được vượt quá 2% GDP (một trong 3 tiêu chí của Hoa Kỳ về thao túng tiền tệ),
khiến Việt Nam tuy chưa nằm trong ‘Danh sách các nước thao túng tiền tệ’ nhưng
vẫn bị Hoa Kỳ xếp vào danh sách theo dõi đặc biệt.
(Mỹ sử dụng ba tiêu chí để đánh giá việc thao túng
tiền tệ của một quốc gia: thặng dư tài khoản vãng lai lớn hơn 3% GDP, thặng dư
thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào
thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP).
Rốt cuộc, giới chuyên gia thân chính phủ đã phải bao
biện rằng hiện tượng Nhà máy In tiền Quốc gia sụt giảm về doanh thu là “tín hiệu
đáng mừng của nền kinh tế, cho thấy Ngân hàng Nhà nước vẫn đang theo chính sách
hạn chế cung tiền ra thị trường”.
Nhưng nhìn thẳng vào thực chất vấn đề, không hạn chế
cung tiền thì sẽ khiến bóng ma lạm phát đội mồ sống dậy.
Bởi Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và đằng sau những
cơ quan này là ‘đảng chỉ tay năm ngón’ không còn có thể in tiền và tung xả láng
tiền ra thị trường như cái thời Nguyễn Tấn Dũng ‘tiền nhiều như nước sông Đà’,
đưa nhiều quan chức cộng sản mấp mé danh sách tỷ phú đô la của Tạp chí nhà giàu
Forbes. Nếu không kềm chế hoạt động in tiền thì bất cứ một trạng thái kích động
lạm phát đủ nghiêm trọng nào cũng đều có thể làm rung chuyển chân đứng của chế
độ cầm quyền ở Việt Nam, vốn đã rệu mục từ lâu bởi các núi nợ công quốc gia và
nợ xấu ngân hàng.
Đó là nguồn cơn khiến số đơn hàng in tiền của Ngân
hàng Nhà nước đã ít hẳn lại vào năm 2019 và làm cho Nhà máy In tiền Quốc gia bị
sụt giảm doanh thu và phải chịu lỗ lớn mà không thể mở miệng than van.
No comments:
Post a Comment