Thursday, 1 August 2019

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CÓ ĐỐI PHÓ ĐƯỢC VỚI TRUNG QUỐC KHÔNG? (Việt Hoàng - Thông Luận)




27/07/2019

Sự kiện Trung Quốc cho tàu thăm dò địa chất HD8 quấy nhiễu và xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại Bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam đang làm dấy lên một làn sóng giận dữ trong dư luận. Sau hai tuần im lặng thì chính quyền Việt Nam đã chính thức lên tiếng phản đối Trung Quốc và yêu cầu Trung Quốc rút các tàu bè vi phạm ra khỏi lãnh hải Việt Nam.

Chưa bao giờ mà dư luận Việt Nam lại chất vấn Đảng cộng sản Việt Nam gay gắt đến như vậy. Một đồng thuận chưa từng có trong mọi thành phần dân tộc Việt Nam khắp nơi trên thế giới là yêu cầu chính quyền Việt Nam phải có phản ứng rõ ràng và dứt khoát trước các hành động ngang ngược vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Đa số ý kiến của người dân và các chuyên gia quốc tế cho rằng việc đầu tiên và cần làm ngay tức khắc là Việt Nam cần khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về luật biển như Philippines đã từng làm năm 2016.

Trước khi đưa ra các yêu cầu cho chính quyền Việt Nam thì chúng ta nên bình tĩnh trả lời các câu hỏi như : Đảng cộng sản Việt Nam có muốn đối phó với Trung Quốc không ? Nếu muốn thì họ có những công cụ nào ? Liệu có đối phó được Trung Quốc không ? Việt Nam cần dựa vào đâu để đối phó với Trung Quốc ?...

1. Đảng cộng sản Việt Nam có muốn đối phó với Trung Quốc không ?

Câu trả lời là vừa có, vừa không. Không bởi vì Đảng cộng sản Việt Nam luôn xem Trung Quốc là đồng minh ý thức hệ quan trọng nhất để bảo vệ chế độ. Sau khi Liên Xô sụp đổ thì ban lãnh đạo Việt Nam nhanh chóng lấy quyết định hòa hoãn với Trung Quốc. Hội nghị Thành Đô là do phía Việt Nam chủ động và đề nghị với Trung Quốc nhằm biến quan hệ hai nước đang từ thù địch chuyển ngay thành bạn tốt. Việt Nam cần một chỗ dựa để chế độ có thể tiếp tục tồn tại. Trong suốt lịch sử của mình Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ là một chính đảng độc lập mà luôn dựa vào một thế lực ngoại bang, lúc thì Liên Xô, lúc thì Trung Quốc, lúc thì cả hai.

Chính vì nắm được điểm yếu này của Đảng cộng sản Việt Nam nên khi có bất cứ bất đồng nào giữa hai nước là Trung Quốc đều lấy con bài ‘đại cục’ ra để đe dọa và khống chế Việt Nam. ‘Đại cục’ ở đây là việc Trung Quốc ủng hộ và chống lưng cho Đảng cộng sản tồn tại để độc quyền cai trị Việt Nam. ‘Đại cục’ đó chỉ có giá trị với Việt Nam chứ với Trung Quốc thì nó không có giá trị gì. Trung Quốc luôn tìm cách khống chế và o ép Việt Nam để độc chiếm Biển Đông.

Năm 2017, Việt Nam đã phải chấp nhận hủy bỏ việc khoan thăm dò dầu khí tại khu vực này và đền bù cho công ty Repsol, Tây Ban Nha trước sức ép của Trung Quốc. Lần này Trung Quốc tại tiếp tục leo thang bằng cách đem tàu thăm dò địa chất vào hoạt động sâu trong lãnh hải Việt Nam. Việt Nam đã cử bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân sang Trung Quốc để đàm phán và sau đó là Võ Văn Thưởng, cả hai đều thất bại trước thái độ cương quyết của Trung Quốc. Không còn cách nào khác Việt Nam đành phải lên tiếng tố cáo Trung Quốc. Báo chí Việt Nam được phép đăng tải nhiều ý kiến khác nhau với một thông điệp mạnh mẽ và cứng rắn khác thường.

2. Đảng cộng sản Việt Nam có những công cụ nào để đối phó với Trung Quốc ?

Có lẽ không nhiều lắm. Về mặt pháp lý, Việt Nam vẫn chưa kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế cho nên dù có nhiều chứng cứ nhưng vẫn không lại được với Trung Quốc. Trung Quốc vừa là nước lớn vừa mua chuộc được nhiều học giả quốc tế và tạo dựng nhiều chứng cứ giả về chủ quyền của họ trên biển Đông. Truyền thông của Trung Quốc cũng hoạt động hiệu quả hơn Việt Nam.

Về quân sự thì Việt Nam thua xa Trung Quốc và với nạn tham nhũng trầm trọng tại Việt Nam thì quân đội cũng không thể là ngoại lệ. Vũ khí dù được mua sắm nhiều nhưng chất lượng có được bảo đảm hay không cũng chưa thể biết được. Tướng lĩnh Việt Nam thì mải lo kiếm tiền hơn là chăm lo cho quốc phòng. Việc cựu đô đốc, trung tướng, thứ trưởng bộ quốc phòng Nguyễn Văn Hiến vừa bị kỷ luật là một ví dụ.

Về kinh tế thì chỉ trong mấy chục năm qua Trung Quốc gần như làm chủ kinh tế Việt Nam. 90% các công trình trọng điểm của Việt Nam đều lọt vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Kết quả của các dự án đó như thế nào thì người dân Việt Nam ai cũng rõ mà điển hình là công trình đường sắt Cát Linh-Hà Đông. Kinh tế Việt Nam cũng phụ thuộc rất nhiều vào thị trường Trung Quốc, nhất là nông nghiệp và thủy hải sản. Sau khi sự kiện Bãi Tư Chính xảy ra, Trung Quốc đã đóng tất cả các đập trên thượng nguồn sông Mekong khiến vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam dưới hạ nguồn bị khô hạn nghiêm trọng. Trung Quốc đồng thời đóng cửa việc buôn bán tiểu ngạch biên giới với Việt Nam khiến người nông dân Việt Nam điêu đứng do giá cả giảm mạnh.

Người dân Việt Nam rất đồng lòng trong việc chống lại sự xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc nhưng cùng với Đảng cộng sản Việt Nam thì có lẽ là không. Rất nhiều ý kiến trên các mạng xã hội của đủ mọi thành phần dân chúng Việt Nam đều cho rằng nếu chính quyền có kêu gọi đi biểu tình chống Trung Quốc thì họ sẽ không tham gia và đó là việc của Đảng cộng sản Việt Nam. Thậm chí có ý kiến cho rằng họ sẽ không làm ‘con cờ’ để Đảng cộng sản Việt Nam thích dí vào đâu thì dí.

Dư luận thế giới rõ ràng là không chấp nhận việc Trung Quốc biến Biển Đông thành ao nhà của mình và tự áp đặt luật chơi của riêng mình. Biển Đông là một tuyến hàng hải quan trọng của thế giới. Tuy nhiên sự ủng hộ của thế giới nói chung và của Mỹ nói riêng dành cho Việt Nam cũng chỉ dừng ở mức độ ‘ngoại giao’. Trung Quốc không thể nào ngăn cản tự do hàng hải trên biển Đông và mặt khác Việt Nam lại là đồng minh ý thức hệ của Trung Quốc nên thế giới khó lòng mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ Việt Nam.

3. Có cách gì để Việt Nam đối phó với Trung Quốc hay không ?

Với Đảng cộng sản thì rõ ràng là không nhưng với dân tộc Việt Nam thì hoàn toàn có thể. Việt Nam có hai ‘công cụ’ quan trọng để bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của Trung Quốc. Thứ nhất là ‘lòng dân’ và thứ hai là sự ủng hộ của các nước dân chủ trên thế giới.

Việt Nam vẫn tồn tại được bên cạnh Trung Quốc đến ngày hôm nay là nhờ vào tinh thần độc lập của người dân Việt Nam. Việt Nam với Trung Quốc không giống nhau và không bao giờ là một, mọi ý muốn đồng hóa hay sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc đều sẽ thất bại. Khi lòng dân đã thống nhất và đồng thuận thì không thế lực nào có thể đe dọa và áp đặt được bất cứ điều gì lên Việt Nam.

Tuy nhiên Đảng cộng sản chưa bao giờ xem người dân Việt Nam là ‘đồng bào’ thực lòng. Họ cư xử với dân tộc Việt Nam như là một đội quân chiếm đóng. Lòng yêu nước của người dân Việt Nam bị Đảng cộng sản lợi dụng hết lần này đến lần khác vì vậy niềm tin của người dân đối với đảng hầu như không còn nữa. Muốn tạo sự đồng thuận giữa chính quyền và người dân trong việc đối phó với Trung Quốc thì phải là với một chế độ khác, ngoài Đảng cộng sản Việt Nam.

Nhiều trí thức Việt Nam yêu cầu Đảng cộng sản nhanh chóng dân chủ hóa đất nước để đối phó với Trung Quốc. Những đòi hỏi này là hoàn toàn đúng vì ngày nào Đảng cộng sản còn trói mình trong chiếc vòng kim cô ‘đại cục’ thì ngày đó Việt Nam vẫn không thể nào có được một chính sách rõ ràng và dứt khoát với Trung Quốc. Tuy nhiên 100% là các đề nghị này sẽ không được lắng nghe và thực hiện. Suốt 73 năm Đảng cộng sản cai trị đất nước, họ luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên lợi ích của dân tộc vì vậy mọi trông chờ vào sự thay đổi của họ đều vô ích và vô vọng.  

Sự ủng hộ của dư luận quốc tế mà cụ thể là các nước dân chủ dành cho Việt Nam hiện nay rất hạn chế và hoàn toàn mang tính ngoại giao. Chỉ khi nào Việt Nam thật sự có dân chủ và hòa vào dòng chảy của thời đại thì khi đó sự ủng hộ mới rõ ràng và dứt khoát. Dân chủ và độc tài như nước với lửa nên không bao giờ Việt Nam có thể là một đồng minh đúng nghĩa và thực chất đối với các nước dân chủ như Mỹ, Nhật, EU…

Khi Việt Nam có dân chủ và có được đồng thuận của đa số dân chúng thì khi đó chính phủ phải tìm cách giảm thiểu và dần dần tiến tới việc độc lập với Trung Quốc về chính trị và kinh tế. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể chung sống một cách hòa bình và bền vững bên cạnh Trung Quốc. Cũng chỉ khi đó Trung Quốc mới không thể dùng kinh tế hay ‘đại cục’ ý thức hệ cộng sản để làm con tin nhằm gây sức ép lên Việt Nam.

4. Phải làm gì bây giờ ?

Rõ ràng là đề nghị Đảng cộng sản dân chủ hóa đất nước để đối phó với nguy cơ Trung Quốc là đúng đắn nhưng điều đó sẽ không xảy ra và khi đó người dân Việt Nam sẽ làm gì ? Chẳng lẽ nếu đảng không lắng nghe và không chịu dân chủ hóa đất nước thì dân tộc Việt Nam đành bó tay ? Chúng tôi chưa thấy ai đưa ra một giải pháp nào cho trường hợp này.

Có một giải pháp rất khả thi và hoàn toàn trong tầm tay mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) đề nghị từ lâu đó là người dân và trí thức Việt Nam hãy lên tiếng ủng hộ cho một tổ chức chính trị khác, ngoài Đảng cộng sản với một giải pháp khác ngoài ‘giải pháp cộng sản’. Giải pháp đề nghị của Tập Hợp đó là giải pháp "dân chủ đa nguyên".

Người dân Việt Nam nên học hỏi người dân Ukraine bằng cách dũng cảm ‘thay máu’ hệ thống chính trị già nua và lạc hậu hiện nay bằng một tổ chức dân chủ mới, trẻ trung đầy nhiệt huyết với một dự án chính trị trong sáng và khả thi với một đội ngũ nhân sự chính trị có hiểu biết, bao dung và viễn kiến.

Hãy ‘hành động’ bằng việc lên tiếng ủng hộ cho giải pháp "dân chủ đa nguyên" của Tập Hợp. Chính quyền Việt Nam không thể bỏ tù một người nào đó vì lên tiếng ủng hộ cho dự án chính trị của Tập Hợp. Khi có hàng triệu người lên tiếng ủng hộ Tập Hợp thì khi đó Đảng cộng sản phải chấp nhận ‘đối thoại’ với Tập Hợp để cùng tìm cách dân chủ hóa đất nước trong hòa bình. Việc này trước sau cũng đến và cũng phải làm. Càng làm sớm càng tốt, càng để lâu thì càng bất lợi cho đất nước và dân tộc. Mỗi người có trí tuệ hãy bình tĩnh suy nghĩ xem, ngoài cách này ra còn có cách nào khác không ?

Việt Hoàng
(27/07/2019)

-------------------------

XEM THÊM 


Thứ Tư, 07/31/2019 - 17:39 — tuankhanh

Lúc này, mọi thông tin về Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) đối với người Việt Nam hiện rất mơ hồ. Trên các thông tin bên ngoài dội về thì gọi là đối đầu, còn phía Hà Nội, thì gọi là đấu tranh. Nếu dựa trên những ngôn từ này, có thể tự lý giải rằng, Trung Quốc bằng nhiều cách như đang muốn vào trực tiếp Bãi Tư Chính chứ không chỉ là ngăn Việt Nam thăm dò và khai thác ở tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính. Còn Việt Nam thì dùng tàu của mình cố ngăn đường đi của Trung Quốc, và mặt khác thì nỗ lực ngoại giao theo kiểu không muốn làm quá.

Nhưng Bắc Kinh rõ ràng không dừng lại, và bộc lộ rõ việc muốn chiếm lấy Bãi Tư Chính. Ngày 26/7, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh tuyên bố rằng Việt Nam “vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với Bãi Tư Chính kể từ tháng Năm”, cho thấy cuộc tranh chấp có nội dung lớn hơn: Bắc Kinh muốn hoàn thành đại nghiệp đường 9 đoạn trên biển Đông, mà Việt Nam là kẻ gây khó trước mắt.

Trên bàn làm việc của các cơ quan tình báo quốc tế, kịch bản về một Bãi Tư Chính còn thuộc quyền Việt Nam, và một Bãi Tư Chính vào tay Trung Quốc ắt đã được lập ra, và cục diện thế giới cũng sẽ thay đổi, dựa vào đó. Từ tháng 5/2019, các thông tin tình báo và chuyển động trên biển Đông đã cung cấp cho ông Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng của Mỹ nhận định rằng sớm muộn gì trong năm nay, Trung Quốc sẽ mở một cuộc chiến trên biển với Việt Nam về pháp lý, và có thể cả đụng độ nhanh. Giờ thì điều ấy đã thành sự thật.

Mỹ cũng nhận biết rõ tính toán này của Trung Quốc nên việc tăng cường các chuyến hải hành tự do, gọi là FONOP, hay lên giọng chỉ trích trực tiếp và mạnh mẽ Bắc Kinh là điều dễ hiểu. Tờ The National Interest, số ra ngày 31/7, của tác giả David Axe, với bài viết có nhan đề “Phi tiễn của Mỹ và Trung Quốc nằm chen cứng trên biển Đông, ai sẽ thắng?” (Here's How China and America's Missiles in the South China Sea Stack Up, who  wins?) đã nhận định như vậy. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng không ngần ngại phô trương việc mang các phi tiễn chống hạm vào biển Đông, thử nghiệm hồi đầu tháng 7/2019 như một cách ngầm cảnh báo.

Rõ ràng hơn, Bắc Kinh cũng phô trương trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo rằng hàng loạt các phi đạn tầm xa có tên DF-26 đã được kéo đến vùng Nội Mông (cách vùng biển Hoàng Sa khoảng 2000 dặm), hướng vào các lộ trình tự do hải hành của Mỹ. Hoàn Cầu Thời Báo cũng không ngần ngại tuyên bố DF-26 có tầm bắn đến 2.500 dặm, và sẽ đánh trúng bất kỳ chiến hạm nào của Mỹ trong vài giây.

Kịch bản của việc Trung Quốc muốn cướp Bãi Tư Chính là gì? Các nhà phân tích phỏng đoán rằng sau khi tạo các bước gây căng thẳng lên cao, các tàu cá – mà thực tế là các tàu dân quân biển sẽ được đưa ra hàng đầu để tiến vào mục tiêu, sau đó, tạo ra một tình huống bị phía Việt Nam ngăn chận, đánh chìm… dẫn đến cuộc gia tốc và can thiệp của hàng chục tàu cảnh sát biển vũ trang Trung Quốc “bảo vệ tàu cá vô tội”. Bãi Tư Chính có thể có một cuộc đổ bộ thần tốc của Trung Quốc, không khác gì trường hợp đảo Gạc Ma. Sau khi cắm cờ, Bắc Kinh có thể ung dung đối phó với Việt Nam – một quốc gia mắc cạn với chiến sách “ba không” của mình, tức 1/ không tham gia các liên minh quân sự. 2/ không đi theo bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác. 3/ không có căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.

Việt Nam, trong cách thức “đấu tranh” của mình, đang chuyển hướng bố cáo dần các sự việc với các quốc gia để tạo áp lực quốc tế. Gần đây nhất, là Hà Nội đã chuyển sự kiện cho New Delhi – cũng là một cách thăm dò phản ứng Bắc Kinh. Sau Ấn Độ, có thể sẽ có thông tin thêm, rộng hơn, phản đối tăng cấp độ. Nhưng đó cũng là một con dao hai lưỡi vì Bắc Kinh sẽ đẩy nhanh tốc độ lấn chiếm, trước khi mọi chuyện bùng phát ở tầm quốc tế hơn là giữa một vài nước.

Có nhiều hy vọng từ đám đông bàn tán trên các trang mạng Việt Nam, là Mỹ sẽ can thiệp cho Việt Nam. Nhưng đó là một khả năng rất thấp. Bởi câu chuyện Bãi Tư Chính đang trở thành chuyện riêng của anh em nhà Cộng sản – đặc biệt khi Nga vẫn phớt lờ khi công ty khai thác dầu khí Rosneft của họ bị uy hiếp. Và quan trọng nhất, Mỹ sẽ không có tư cách gì can thiệp cho Việt Nam, khi các cơ hội về một liên minh hợp tác quốc phòng luôn bị Hà Nội né tránh. Hãy nhìn vào Hồng Kông, nếu có sốt ruột trước phong trào đòi dân chủ ở đó, Mỹ cũng không thể làm gì hơn là chỉ trích.

Việt Nam cũng vậy, đặc biệt, mọi chuyện có vẻ như thuận buồm xuôi gió cho Trung Quốc, khi người đứng đầu tối cao của đảng- nhà nước Việt Nam là Nguyễn Phú Trọng chỉ nói chuyện tham nhũng, mà không cất một tiếng nào về an nguy quốc gia, dù gần 1 tháng bị uy hiếp và xâm lấn.

Bãi Tư Chính có thể sẽ mất như Gạc Ma. Và sau đó, người dân Việt Nam sẽ rồi chỉ còn nghe lời tuyên bố dữ dội của một quan chức cấp cao rằng chuyện đòi lại Hoàng Sa, Gạc Ma, Tư Chính là điều của thế hệ con cháu phải làm.






No comments:

Post a Comment

View My Stats