Phượng Hoàng, Đài SBS, Australia, phỏng vấn tiến
sĩ, nhà báo Phạm Chí Dũng
21/05/2014
Chủ nhật tuần qua biến cố biểu tình lan rộng
khắp nước chống Trung Quốc đưa giàn khoan vào trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam đã được dư luận quốc tế chú ý loan tin rộng rãi.
Nhưng trên trạng mạng của báo chí lề trái, người ta thấy rõ bàn tay
của nhà cầm quyền tổ chức một cuộc biểu tình “quốc doanh”, chủ ý
định phỗng tay trên cướp đoạt cuộc biểu tình của người dân yêu nước
để lèo lái theo ý muốn của đảng cầm quyền, nhưng bị thất bại vì bị
vạch mặt.
Thế rồi sang ngày thứ Ba, một làn sóng biểu
tình khác đã bùng nổ tại 22 tỉnh thành. Đặc điểm là các cuộc biểu
tình này bạo động, diễn ra ở các công ty của người ngoại quốc, đa
số là của Trung Quốc. Nhiều hãng xưởng đã bị đập phá, phóng hỏa, và
bị một số người hôi của. Ngay ngày hôm ấy, công nhân tại các nơi này
đã xác nhận những kẻ đến hô hào bạo động không phải là công nhân
của nhà máy. Hàng trăm người bị bắt.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xác nhận vừa
“bình ổn được tình hình ở phía Nam”, thì ở khu công nghiệp Vũng Áng,
Hà Tĩnh đã xảy ra xô xát chết người.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh tại Việt Nam đã đi đến
từng nhà máy trong khu công nghiệp Biên Hòa, Bình Dương và ghi nhận:
nhóm biểu tình bạo động này rất hung hăng, đi từ nơi này sang nơi khác,
trang bị gậy sắt, máy bộ đàm, có tổ chức chặt chẽ, dụ dỗ người đi biểu
tình sẽ được trả tiền. Nhóm người này có cung cách hành xử rất côn đồ, đập
phá có chủ đích và rất chuyên nghiệp.
Đặc biệt, tại tất cả những nơi bị đám người này tấn
công, người ta thấy vắng bóng công an, cảnh sát; công ty bị phóng hỏa, công
nhân gọi lực lượng cứu hỏa nhưng bị cúp máy. Tất cả cho thấy một sự “thả
lỏng” kỳ lạ của nhà cầm quyền.
Trong khi đó, lời kêu gọi của thành phần thanh niên
yêu nước - kêu gọi biểu tình ôn hòa, không bạo động, không cướp phá – bị lạc
lõng trong cơn hỗn loạn.
Ai giật dây những kẻ gây ra bạo loạn? Phải chăng
mục đích của họ là phá hoại phong trào chống hành động xâm lăng của Trung
Quốc và phá hoại luôn cả kinh tế Việt Nam?
Như vậy phải chăng hiện nay có đến 3 thành phần, 3
khuynh hướng biểu tình tại Việt Nam? Chúng tôi đã đặt câu hỏi đó với tiến sĩ
kinh tế – nhà báo tự do Phạm Chí Dũng tại Sài Gòn. Ông trả lời:
Phạm
Chí Dũng: Phóng sự hai phần của nhạc sĩ Tuấn Khanh rất giá
trị trong bối cảnh hiện thời, tại thời điểm hiện thời và trong những điều kiện
gọi là tình hình hỗn mang ở Việt Nam, bởi vì phóng sự đó nêu ra những câu hỏi,
những tín hiệu không thể không làm cho dư luận phải nghi ngờ về vai trò của
công an và sự biến mất của công an trong những ngày diễn ra những cuộc biểu
tình bạo động ở Bình Dương, Đồng Nai và kể cả Hà Tĩnh. Riêng Hà Tĩnh thì đã có
chết người và đó là một hậu quả rất trầm trọng.
Bài phóng sự đó tôi cho là mô tả tổng quát và đã đặt
ra những câu hỏi – không chỉ là câu hỏi mà có thể dẫn tới kết luận nữa. Ngày
hôm nay báo chí Nhà nước xác nhận là tất cả những kẻ bị bắt, những kẻ côn đồ
đập phá tại Bình Dương, Đồng Nai không phải là công nhân. Rõ ràng như vậy. Mà
không phải là công nhân thì là ai? Được giật dây bởi ai? Ai đứng đằng sau những
kẻ côn đồ như vậy? Làm sao xuất hiện một nhóm côn đồ như vậy và có thể xách
động cả một cuộc biểu tình đi đập phá thay vì biểu tình ôn hòa và biểu tình có
văn hóa?
Chúng ta nhìn lại tổng quát thì thấy thế này: trong
thời gian vừa qua thì có bốn luồng biểu tình – bốn khuynh hướng biểu tình.
Khuynh hướng lớn nhất chính là nhân dân mà tôi cho là phát xuất từ tình cảm dân
tộc. Người ta muốn phản kháng sự can thiệp của Trung Quốc tại lãnh hải của Việt
Nam ở Biển Đông. Khuynh hướng thứ hai là biểu tình quốc doanh, hoặc là “biểu
tình cuội”, hoặc dùng một từ chuyên môn hơn của Nhà nước, gọi là “phản biểu
tình” hoặc “chống biểu tình”. Đó là cái phương án đã được tập dượt từ lâu và
đưa cả vào phương án B2 là phòng chống bạo loạn biểu tình. Khuynh hướng thứ ba
là khuynh hướng biểu tình hơi có tính chất “cải lương” của một số trí thức nhân
sĩ mang khuynh hướng phản biện trung thành với Nhà nước. Khuynh hướng này trong
thời gian vừa rồi đã nhận được sự hồi đáp gần như là sự lăng mạ từ phía chính
quyền, không gần gũi hơn được với chính quyền và có thể nói thẳng đó là một sự
thất bại.
Và khuynh hướng thứ tư đặc biệt nghiêm trọng mà
chúng ta vừa đề cập tới, là khuynh hướng biểu tình bạo động và có thể dẫn tới
bạo loạn. Đó là những phần tử quá khích hôi của và mượn hơi cuộc biểu tình để
thực hiện những động cơ riêng của họ.
Tại sao lại có những người đi biểu tình cầm theo cả
máy bộ đàm? Tại sao trong những ngày biểu tình, toàn bộ lực lượng cảnh sát giao
thông – vốn trước đó tràn ngập và bị coi là “hung thần” ở tỉnh Bình Dương và
Đồng Nai – lại biến mất? Kể cả cảnh sát cơ động cũng không thấy tăm hơi đâu!
Quân đội thì hoàn toàn không thấy! Và tại sao những kẻ côn đồ biểu tình đập phá
tới nay lại được xác nhận không phải là công nhân? Như vậy là một nhóm nhỏ hay
là một nhóm lớn? Và những luồng thông tin đặt ra là liệu có bàn tay của tình báo
Hoa Nam, Trung Quốc, trong những cuộc biểu tình bạo động như vậy hay không? Và
đặc biệt nghiêm trọng là chúng ta thấy là ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, là nơi có ít
nhất 7.000 công nhân Trung quốc làm việc, nơi có giá trị đến hàng tỉ đô la
Trung Quốc đầu tư vào và đã gây dậy sóng dư luận trong báo chí Việt Nam trong
thời gian vừa qua về việc Trung Quốc tọa ngự ngay trên mặt đất Việt Nam và đó
là kế sách định cư lâu dài của người Trung Quốc ở Việt Nam, thì đã xảy ra những
cái chết . Và những cái chết đó không phải là số ít. Theo tin Reuters, có ít
nhất 20 người. Tôi còn nghe những thông tin có thể con số cao hơn. Và tình hình
rất nghiêm trọng ở đó. Chính ông Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã
phải xác nhận là tình hình rất nghiêm trọng và ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Như vậy tất cả nhưng hiện tượng biểu tình trong thời
gian vừa qua xứng đáng để tất cả chúng ta, những người quan sát đau đáu với
hiện tình đất nước Việt Nam trước giàn khoan HD 981 của Trung Quốc ngự trị
trong lãnh hải Việt Nam, đặt ra những câu hỏi hết sức bức xúc rằng: với tất cả
những hiện tượng nhốn nháo như hiện nay thì mọi chuyện sẽ dẫn tới đâu?
SBS
: Mọi chuyện sẽ dẫn tới đâu anh ? Dù là phe nào đi
nữa thì vấn đề đặt ra là: ai chịu trách nhiệm? Nhà Nước Việt Nam nói chung vẫn
là người phải đứng ra gánh trách nhiệm chứ đâu có đổ cho nhóm nào, côn đồ hay
ai được? Người chịu trách nhiệm tối hậu là Nhà Nước, phải không ạ?
Phạm
Chí Dũng: Tất nhiên là Nhà Nước phải chịu trách nhiệm. Chỉ
có điều đó là trách nhiệm cuối cùng, chứ không phải là trách nhiệm đầu tiên.
Bởi vì đầu tiên phải thể hiện vào lúc mà hậu quả bắt đầu sinh ra. Nhưng mà khi
hậu quả bắt đầu sinh ra thì không thấy bóng dáng chính quyền, Nhà nước, công an
ở đâu cả! Và chỉ khi mọi thứ đã tan hoang, khoảng vài chục – có con số lên tới
gần một trăm doanh nghiệp đã bị đập phá, trong đó có doanh nghiệp của Trung
Quốc, Đài Loan và kể cả của Singapore nữa- lúc đó công an mới vào cuộc, mới bắt
người. Lúc đó mọi chuyện đã quá muộn rồi! Cuối cùng vẫn là trách nhiệm của Nhà
nước. Tôi đồng ý với quan niệm này.
SBS: Và khi mình nói đến trách nhiệm, có vấn đề bồi thường? Có bồi thường
không? Ai sẽ bồi thường đây?
Phạm
Chí Dũng: Trung Quốc đang nêu vấn đề bồi thường với Việt Nam.
Nhà nước Trung Quốc sau vụ biểu tình ở Vũng Áng, Bình Dương, Đồng Nai và sau
những hậu quả trầm trọng như vừa qua thì bắt đầu lên tiếng: “Việt Nam phải có
trách nhiệm để xử lý nghiêm những kẻ gây rối, những kẻ côn đồ và phải bồi
thường cho các doanh nghiệp”.
Tôi không biết thực ra vấn đề bồi thường này Trung
quốc dựa trên điều luật quốc tế nào, bởi vì ngay những quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (DOC) và các quy ước quốc tế (UNCLOS) Trung Quốc đã không tuân thủ nghiêm
túc thì làm sao Trung Quốc có thể đòi Nhà nước Việt Nam bồi thường về vấn đề này?
Và trước khi nói tới vấn đề bồi thường thì Trung Quốc sẽ trả lời Việt nam thế
nào nếu như Nhà nước Việt Nam làm được như là Nhà nước Philippines, có nghĩa là
đệ đơn kiện Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam ra tòa án quốc tế? Đó là một
vấn đề.
Vấn đề thứ hai là việc bồi thường cho các doanh
nghiệp Trung Quốc, nếu chỉ xét ở nội tình Việt Nam, tôi cho là Nhà nước Việt
Nam có trách nhiệm phải bồi thường, trong đó có trách nhiệm đã không quản lý
trị an thực sự đúng pháp luật và để xảy ra những sự việc như vậy – nhưng mà
không phải do yêu cầu của Trung Quốc mà Nhà nước Việt Nam tự thân phải có trách
nhiệm về vấn đề đó.
Bây giờ có một vấn đề đặt ra là : chưa thấy bất kỳ
một doanh nghiệp nào nêu ra một sự thiệt hại tính bằng giá trị nào…
SBS: Họ chưa có thì giờ, họ chưa kịp thôi!
Phạm
Chí Dũng : Có lẽ có tâm lý như thế này nữa: là họ đang ngán
ngại, đang sợ hãi vì cái làn sóng chống Trung Quốc ở Việt Nam, và họ sợ là khi
họ công bố những con số như vậy lại càng đổ dầu vào lửa và làm cho sự phẫn uất
của người Việt Nam đối với Trung Quốc tăng cao hơn nên họ chưa công bố, chứ tôi
nghĩ là họ đã có con số thống kê, có ước tính sơ bộ về thiệt hại như thế nào
rồi.
SBS : Nhưng không phải chỉ riêng các công ty Trung Quốc họ đang sợ hãi mà
chạy sang các nước khác, lo bỏ của chạy lấy người. Có cả những công ty của
Singapore, của Đài Loan, họ cũng giơ hai tay lên, họ nói: chúng tôi không có
dính líu gì tới Trung Quốc hết, chúng tôi ủng hộ Hoàng Sa - Trường Sa là của
Việt Nam v.v.. Nói chung là bầu không khí đầu tư làm ăn ở Việt Nam đang sụp đổ.
Làm thế nào để gây lại lòng tin tưởng nơi giới đầu tư bây giờ anh?
Phạm
Chí Dũng: Nhà nước Việt Nam phải đứng ra xin lỗi giới đầu tư
nước ngoài, chính thức phải có trách nhiệm bồi thường một phần cho giới đầu tư
nước ngoài. Không thể khác hơn được. Chính Nhà nước Việt Nam và ngân sách Việt
Nam phải đứng ra làm chuyện đó. Chỉ có điều ngân sách Nhà nước Việt Nam cũng
lấy từ tiền thuế của dân thôi, mà tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay cực kỳ
khó khăn. Tôi không biết Nhà nước Việt Nam sẽ lấy tiền ở đâu ra. Nhưng chắc
chắn sẽ phải xin lỗi người ta, tại vì vụ vừa qua không chỉ ảnh hưởng tới kinh
tế đối với nước ngoài, mà những cuộc biểu tình bạo động bạo loạn làm tôi nhớ
tới tình hình Indonesia cách nay 15, 16 năm và tới tình hình Ukraine như thời
gian vừa qua. Và nó thực sự là nỗi nhục quốc thể đối với Việt Nam, tại vì nó
đẩy nền văn hóa biểu tình, nền văn hóa biểu thị của dân chúng xuống tới tận
cùng. Người ta nhìn vào cái hiện tượng này, quy về cái bản chất của nó. Nếu chỉ
nhìn vào hiện tượng thì sẽ thấy là biểu tình chỉ là để đập phá và giết người.
Và như thế là tận cùng của văn hóa biểu thị và hoàn toàn không phù hợp chút nào
với các công ước, quy ước quốc tế trong Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc mà
Nhà nước Việt Nam đã tham gia.
SBS: Có ý kiến cho rằng biểu tình và bày tỏ sự phẫn nộ như vậy không phải
từ nguyên nhân duy nhất là chống Trung Quốc, có phải vậy không ạ?
Phạm
Chí Dũng: Hoàn toàn đúng. Tôi là người Việt Nam, tôi hoàn
toàn sống trong bầu không khí phẫn nộ và kích nổ ở Việt Nam nên tôi hiểu vấn
đề. Và tôi cũng nghe rất nhiều dư luận về thực trạng xã hội Việt Nam trong
những năm vừa qua; đặc biệt là từ năm 2013 tới giờ xảy ra quá nhiều chuyện. Và
giới công nhân là giới bị áp bức nhiều nhất, áp bức về chế độ lương, về chế độ
lao động, về chế độ an sinh xã hội, về mối quan hệ chủ thợ. Họ luôn luôn sống
trong cảnh nơm nớp bị đuổi việc.
Từ năm 2011 đến nay, mặt bằng giá cả, chỉ số lạm
phát thực tế ở Việt Nam đã tăng từ 2,5 đến 3 lần. Trong khi đó, mặt bằng lương
cuả công nhân ở các khu chế xuất công nghiệp giảm từ 25 đến 30%. Như vậy thì
giá cả tăng, mà lương lại giảm thì làm sao công nhân có thể tồn tại được ? Mà
mức lương đó vốn trước đây đã được coi là khó sống. Trả lương như vậy mà
kéo dài thời gian làm việc; thậm chí đi toilet cũng phải xin phép, phải làm
đơn, như vậy thì làm sao công nhân có thể chịu đựng được? Mà lại có hiện tượng
những công ty Trung Quốc và Đài Loan là những công ty đối xử với công nhân Việt
Nam thiếu văn hóa, tàn tệ nhất. Chính điều đó đã gây ra một mối xung khắc tích
tụ lâu năm giữa công nhân Việt Nam với chủ nhân Trung Quốc và Đài Loan. Cho nên
không ngạc nhiên là trong làn sóng bạo động vừa qua, các doanh nghiệp bị nhắm
tới là Trung Quốc và Đài Loan chứ không phải là ai khác.
Vấn đề giàn khoan HD 981 chỉ là phát pháo lệnh, một
đốm lửa để bùng cháy lên, lan ra cả một vùng lửa lớn; trong đó có nhiều nguyên
nhân. Nguyên nhân chính là bức xúc và phẫn uất xã hội dẫn tới phản kháng xã
hội; chưa kể là sự phản kháng của công nhân đối với các chính sách của Nhà nước
và các vấn đề khác của xã hội. Họ nhân vụ này để ra đường gào, thét, la và làm
mọi thứ để có thể giải tỏa nỗi bức xúc đã bị kìm nén lâu ngày. Đó là nguyên
nhân chính. Còn về vấn đề Trung Quốc, tôi cho là họ có tinh thần dân tộc, nhưng
nó không là nguyên nhân quyết định trong vụ việc để kéo cả một đám đông trong
suốt mấy ngày đi từ tỉnh này sang tỉnh kia, thậm chí là diễn ra hành động đập
phá như vừa qua. Đó là một hiện tượng rất đáng lý giải về góc độ xã hội học và
tâm lý học.
SBS: Trong khi tình hình diễn ra như vậy thì anh nghĩ gì khi Hội nghị Trung
ương đảng né tránh chuyện Biển Đông, lo đi bàn về văn hóa? Bên trong thì như
vậy, còn bên ngoài thì Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng xin gặp Tập Cận Bình
nhưng bị từ chối ?
Phạm
Chí Dũng: Đó cũng là một sự thất vọng kép! Hai sự thất vọng
đến cùng một lúc! Hội nghị Trung ương hoàn toàn không đề cập đến vấn đề Trung
Quốc. Chỉ bài diễn văn cuối cùng mới đề cập đến vấn đề biển Đông. Dùng từ “biển
Đông” nhưng không có một từ “Trung Quốc” nào cả! Có lẽ không cần giải thích quý
vị cũng hiểu tại sao như vậy. Tại vì tất cả đều dẫn dắt từ một chu trình khép
kín thôi – nhân nào thì quả đó. Và chính sách Việt Nam là hữu nghị thắm thiết,
tình bạn môi hở răng lạnh với Trung Quốc đã phải trả giá như thế nào. Và hầu
hết cho tới nay thì dường như giới chính khách đều ngậm bồ hòn. Họ không thể
nói hơn được nữa. Đó là một chuyện.
Câu chuyện thứ hai chị vừa đề cập là chuyện tờ The
New York Times, tờ báo uy tín lớn nhất của Hoa Kỳ đã tiết lộ tin này, chứ không
phải báo chí trong nước. Việc ông Nguyễn Phú Trọng đã bị từ chối thẳng thừng
bởi văn phòng của ông Tập Cận Bình là vì ông Nguyễn Phú Trọng đề cập chuyện có
thể qua Bắc Kinh để bàn những biện pháp “giải tỏa”. Thực sự đó là một lời cầu
xin. Nhưng ngay cả lời cầu xin đó cũng bị thẳng thừng từ chối. Tôi cho đó là
một nỗi nhục tiếp theo nỗi nhục một nước nhỏ quá quỵ lụy nước lớn đến không thể
chấp nhận được!
Tình hình đó cho thấy là tình hình ở biển Đông bế tắc,
bế tắc tới mức mà nay người ta cho rằng Việt Nam không còn lựa chọn nào khác.
Chỉ là một trong hai, chứ không còn là cả hai. Không còn là lúc so đo tính
toán, đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ nữa, mà chỉ có thể là lựa chọn một trong
hai: hoặc là Trung Quốc, hoặc là Hoa Kỳ. Cho nên tín hiệu mà Tư lệnh hạm đội 7
Hoa Kỳ bắn tin trên Reuters về việc hợp tác quân sự Biển Đông giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam trong vài ngày qua, đó là tín hiệu tôi cho là nếu Việt Nam mà bỏ qua
cơ hội này thì sẽ khó còn cơ hội nào khác.
SBS: Thưa, báo chí trong nước loan những tin như là “quốc tế phẫn nộ”, như
là “dư luận các nước, các chính khách, các học giả lên án Trung Quốc”… nhưng mà
trong những ngày đầu, Mỹ còn nhẩn nha nói là Mỹ “đang nghiên cứu”. Còn về phía
Nga là nước đã bán tàu ngầm cho Việt Nam, thì Nga bận tập trận với Tàu. Có ý
kiến là mình chớ có tin Mỹ, tin Nga mà có ngày bán thóc giống mà ăn. Thế thì,
cái lựa chọn nào còn lại cho Việt Nam? Liệu bây giờ nhà cầm quyền Hà nội có
nghĩ tới chuyện kiện Trung quốc ra tòa án quốc tế như Phi Luật Tân hay không?
Hay là chuyện đó bây giờ trễ quá rồi?
Phạm
Chí Dũng: Tôi cho rằng người Nga họ đang bận với việc trưng
cầu dân ý ở Crimea và bận đối phó với những luồng thông tin bất lợi cho họ về
vụ Crimea. Người Pháp – tôi nghĩ là họ quan tâm tới vấn đề văn hóa được đặt ra
trong hội nghị Trung ương 9 của đảng Cộng sản Việt Nam hơn là chuyện ở biển
Đông. Còn người Mỹ, thì có vài thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ lên tiếng, không
phải là đại diện cho Quốc Hội Mỹ, càng không phải là đại diện cho chính phủ Mỹ!
Càng không có một tiếng nói nào của Tổng thống Mỹ.
Tôi cho là, hơn ai hết, người Mỹ họ hiểu Việt Nam.
Họ đang đóng vai trò một người đứng trên núi nhìn xuống, nhìn hai con cá quẫy
dưới biển và xem con cá nào thắng. Họ không bao giờ dại gì mà lao vào một cuộc
chiến ở biển Đông mà trong đó cái phần thất thiệt sẽ ảnh hưởng đến lực lượng và
uy tín của họ.
Báo chí Việt Nam, theo lối thông tin một chiều từ
trước tới giờ – tất nhiên phải nói là “những tiếng nói phẫn nộ trên trường quốc
tế”. Nhưng mà những tiếng nói nào, trong khi không hề có một tiếng nói chính
thức nào trên một diễn đàn chính thức nào ủng hộ Việt Nam? Chỉ có một số người,
trong đó cộng đồng người Việt là chủ yếu, chứ còn trong giới học giả thì rất
ít.
Đồng minh lớn nhất của Việt Nam hiện nay, đối tác
chiến lược toàn diện, chính là Trung Quốc. Nhưng mà tình bạn môi hở răng lạnh
như vậy đã đối xử với Việt Nam như vậy, thì thử hỏi những người bạn khác đối xử
với Việt Nam như thế nào? Thực tế Việt Nam không còn một đồng minh nào khác. Nhà
nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn cô đơn trên trường quốc tế.
SBS: Câu hỏi đặt ra là bây giờ liệu Việt Nam có nên cùng với Phi Luật Tân
đứng ra kiện Trung quốc nhân chuyện giàn khoan này, hay la chuyện đó quá trễ
rồi?
Phạm
Chí Dũng: Tôi cho là chuyện đó có thể để sau. Không nhất
thiết phải làm trong thời điểm này. Việt Nam vẫn còn mười năm nữa để đòi lại
Trường Sa và vẫn còn thời gian khá dài để làm rõ cái đường lưỡi bò là như thế
nào.
Nhưng việc nên làm trước mắt là bài học của người
Philippines đã đạt được trong chuyến công du của Tổng thống Hoa kỳ Barack Obama
tại Philippines. Đó là giữa Philippines và Hoa Kỳ đã có được một hiệp ước về
quốc phòng.
Hiệp ước tương trợ về quốc phòng đó rất giá trị, có
nghĩa là bảo đảm lãnh hải của Philippines khó bị Trung Quốc xâm lấn. Cho nên
vừa rồi, bất chấp những lời tuyên bố hung hăng hiếu chiến của Trung Quốc, phía
Trung Quốc đã không dám làm một cái gì trong hành động chiếm bất kỳ một đảo nhỏ
nào của Philippines. Philippines đầy chủ quyền, đầy tự tin để có thể bắt bất cứ
tàu cá nào của Trung quốc xâm nhập lãnh hải của Philippines.
Đó, vấn đề là như vậy. Cho nên khi Hoa Kỳ đã chìa
tay ra từ tháng Tư năm 2013, đã có những hợp tác giao lưu quân sự với Đà Nẵng
của Việt Nam thì đúng ra Việt Nam phải bắt được tín hiệu đó; nhưng mà rất tiếc
đã không làm được gì từ đó đến nay và không có nổi một cái điều gọi là “chiến
lược lá chắn” của Hoa Kỳ ở biển Đông của Việt Nam. Như vậy thì hậu quả Việt Nam
phải trả giá đến ngày hôm nay là điều chắc chắn.
Điều đầu tiên, nhu cầu đầu tiên Việt Nam phải làm là
phải có ngay được một hiệp ước tương trợ quốc phòng với Hoa Kỳ, và chính hạm
đội 7 sẽ đóng vai trò đó. Khi hạm đội 7 xuất hiện ở biển Đông thì tôi cho rằng
không chỉ giàn khoan HD 981, mà kể cả hàng trăm tàu chiến và hải cảnh của Trung
Quốc đang quần thảo ở vùng lãnh hải này sẽ phải rút đi. Và mối họa trước mắt
cũng như trong trung hạn của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ bị giảm thiểu.
SBS: Dạ vâng. Cảm ơn anh Phạm Chí Dũng.
TS
Phạm Chí Dũng gửi BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:13
No comments:
Post a Comment